Osho
– Những cuốn sách tôi yêu - Chương 4
1984,
tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregon, USA
Được thôi.
Hãy sẵn sàng cho những ghi chép của bạn.
Thế gian hẳn
sẽ thiệt thòi nhiều nếu không có những người như Devageet. Chúng ta hẳn sẽ
không biết gì về Socrates nếu Plato đã không viết những ghi chép, hoặc không biết
về Phật, Bồ Đề Đạt Ma. Jesus được biết đến thông qua những ghi chép của các môn
đệ ông. Mahavira được cho là không bao giờ thốt ra một lời nào. Tôi biết ý
nghĩa tại sao điều đó được nói. Không phải là ông ấy không thốt ra một lời nào,
mà ông ấy không bao giờ giao tiếp với thế giới một cách trực tiếp mà chỉ thông
qua những ghi chép của các môn đệ.
Không có người
chứng ngộ nào được cho là đã tự viết về mình. Như bạn biết, với tôi người chứng
ngộ không phải là vấn đề cuối cùng. Vẫn còn trạng thái siêu việt mà nó không phải
là chứng ngộ hoặc không-chứng ngộ. Bây giờ, trong trạng thái của tâm thức đó chỉ
có sự giao cảm thân mật – tôi đang không sử dụng từ giao tiếp một cách cố ý, mà
là giao cảm – một dạng liên kết, hòa vào, người môn đệ trở thành cánh tay của Bậc
Thầy.
Cho nên hãy sẵn
sàng cho những ghi chép của bạn, bởi vì lần cuối cùng, mặc dù bất đắc dĩ, tôi sẽ
nói đến tên của thi sĩ-ca sĩ của GEET GOVIND. Mặc dù tôi đã cố không nói đến điều
đó. Tôi đã giả vờ cứ như tôi đã quên điều đó, nhưng nó vẫn đè nặng lên tôi. Cả
ngày tôi cảm nhận một chút lo lắng về Jaydeva – đó là tên của người thi sĩ-ca
sĩ của GEET GOVIND.
Tại sao tôi
không sẵn sàng nhắc đến tên của ông ấy? Vì quyền lợi của ông ấy. Thậm chí ông ấy
đã không gần với chứng ngộ. Tôi đã nói đến Mikhail Naimy, người sáng tạo ra cuốn
KINH THƯ MIRDA; tôi đã nhắc đến Kahlil Gibran, và nhiều người khác: Nietzsche,
Dostoevsky, Walt Whitman. Họ không phải là những người chứng ngộ, nhưng họ rất
gần, chỉ bên bờ; chỉ một cú đẩy là họ sẽ vào, vào ngôi đền. Họ đang đứng ở ngưỡng
cửa, không đủ dũng cảm để gõ… và ô cửa không khóa. Họ có thể đẩy và ô cửa sẽ mở
ra. Thực ra nó đã mở, chỉ cần một cú đẩy, cũng giống như họ cần một cú đẩy. Do
vậy mà tôi nhắc đến tên họ.
Nhưng Jaydeva
lại không gần với ngôi đền. Cách GEET GOVIND hạ xuống ông ấy là điều huyền diệu.
Nhưng không ai biết những điều huyền bí của Thượng đế – và nên nhớ không có Thượng
đế, đó chỉ là sự biểu lộ. Không ai biết những điều huyền bí của tồn tại, sự
phong phú của nó. Đôi khi nó rót lên mảnh đất cằn cỗi, đôi khi nó không mưa lên
đất màu. Nó đơn giản là vậy, không gì có thể được thực hiện về nó.
Jaydeva là mảnh
đất cằn cỗi. GEET GOVIND, đây là bài thơ đẹp, bài ca của Thượng đế, đã hạ xuống
ông ấy. Chắc ông ấy đã ca nó, đã sáng tác nó mà không biết mình đang làm gì.
Tôi không nhìn thấy ông ấy ở bất kỳ nơi nào gần ngôi đền, chính vì vậy mà tôi
không sẵn sàng nhắc đến tên ông. Thậm chí điều đó có thể làm cho ông ấy bản ngã
hơn. Chính vì vậy mà tôi đã nói, “Vì quyền lợi của ông ấy”, nhưng tôi cảm thấy
đó không phải là lỗi lầm của ông – dù ông ấy có là gì thì vẫn vậy – nhưng ông ấy
đã cho ra đời một đứa trẻ đẹp, và nếu tôi có nhắc đến đứa trẻ thì hãy để tôi nhắc
đến tên của cha nó; nếu không mọi người sẽ nghĩ đứa trẻ là con hoang. Có thể
người cha như vậy, nhưng đứa trẻ thì không.
Tôi cảm thấy
thư giãn vô cùng bởi vì tôi kết thúc với Jaydeva mãi mãi. Nhưng đang có một
hàng ở trước cửa. Bạn không biết tôi đang trong một tình thế khó khăn như thế
nào. Tôi đã không nghĩ đến điều này trước đó, bởi vì tôi không phải là nhà tư
tưởng và tôi không bao giờ nghĩ trước khi tôi nhảy. Tôi nhảy, và sau đó tôi
nghĩ. Đó là cách tôi nói đến mười cuốn sách đẹp. Tôi không nghĩ lại có quá nhiều
những cuốn khác bắt đầu làm tôi áy náy. Cho nên, thêm mười cuốn nữa.
Đầu tiên: THƯ
KHÚC của Heraclitus. Tôi yêu con người này. Hãy để tôi nói về điều đó, chỉ là
nhân tiện, như là ghi chép bên lề, rằng tôi yêu tất cả, nhưng tôi không thích tất
cả. Tôi thích một vài và tôi không thích một vài, nhưng tôi yêu tất cả. Không
có vấn đề gì về điều đó. Tôi yêu Jaydeva cũng nhiều như tôi yêu Heraclitus,
nhưng tôi cũng thích Heraclitus.
Có một số ít
người tôi có thể đặt họ ngang hàng với Heraclitus. Thực tế, nói như thế cũng
không đúng; không có ai. Bây giờ tôi đang nói những gì tôi thực sự luôn muốn
nói. Không có ai, tôi nhắc lại, liệu có thể đặt ai ngang hàng với Heraclitus.
Ông ấy ở quá xa – người thức tỉnh nguy
hiểm, không sợ hậu quả những gì mình đang nói.
Ông ấy nói
trong THƯ KHÚC đó – lại là những ghi chép của một Devageet, một người môn đệ.
Heraclitus không viết. Chắc phải có một cái gì đó, lý do nào đó mà những người
đó không viết, nhưng một chút muộn hơn sau đó. Heraclitus nói trong THƯ KHÚC:
“Bạn không thể bơi hai lần trên cùng một dòng sông.” Và sau đó ông ấy nói:
“Không, bạn không thể bơi trên cùng một dòng sông thậm chí một lần…” Điều này
vô cùng đẹp và cũng thật nữa.
Mọi thứ đều
đang thay đổi, và thay đổi quá nhanh đến mức không có cách nào bơi trên cùng một
dòng sông hai lần; thậm chí bạn không thể bơi trên cùng một dòng sông một lần.
Dòng sông không ngừng tuôn chảy; đang đổ ra đại dương, tới vô hạn, sẽ biến vào
cái chưa biết.
Đây là tên đầu
tiên trong danh sách của tôi buổi tối nay: Heraclitus.
Thứ hai: NHỮNG
VẦN THƠ VÀNG của Pythagoras. Rõ ràng, ông ấy là một trong những người bị hiểu
sai nhất. Nếu bạn biết, bạn buộc phải bị hiểu sai, đó là điều chắc chắn. Hiểu
là điều rất nguy hiểm, bởi vì thế thì bạn sẽ hiểu sai. Pythagoras cũng không được
hiểu ngay cả với những môn đệ của ông, bởi những người đã viết NHỮNG VẦN THƠ
VÀNG. Họ đã viết nó một cách máy móc… bởi vì không một môn đệ nào của
Pythagoras đã vươn tới những đỉnh cao của ông, không một người nào đã trở nên
chứng ngộ. Và người Hy Lạp đã hoàn toàn lờ ông đi. Họ đã lờ những người tốt nhất
của họ: Heraclitus, Socrates, Pythagoras, Plotinus. Họ muốn lờ Socrtes nữa,
nhưng ông ấy quá vĩ đại. Cho nên họ phải đầu độc ông, họ không thể chỉ lờ ông.
Nhưng
Pythagoras thì hoàn toàn bị lờ đi, và ông ấy cũng có chìa khóa giống như Phật
Gautam, Jesus, hoặc bất kỳ người chứng ngộ nào khác. Thêm một điều nữa: không
có ai, hoặc là Phật, hoặc là Lão Tử lại rất nỗ lực để tìm cho ra chìa khóa như
là Pythagoras. Ông ấy làm việc nhiều và tích cực nhất. Pythagoras là người tìm
kiếm đích thực nhất. Ông ấy đã chịu rủi ro về mọi thứ. Ông ấy đã du hành khắp
thế gian được biết vào thời đó; học hỏi, nghiên cứu với mọi dạng bậc thầy; tham
gia vào mọi trường phái huyền bí và thực hiện mọi điều kiện của chúng. Ông ấy
là một tiêu chuẩn cho chính mình.
Thứ ba: Người
đàn ông không được biết nhiều, thậm chí ngay cả với những người của đất nước
mình. Tên của ông là Sahara, và cuốn sách được gọi là BÀI CA CỦA SAHARA; đó là
tiêu đề Tây Tạng. Không ai biết người nào đã viết nó. Một điều là chắc chắn,
Sahara không bao giờ viết, ông ấy chỉ ca hát nó. Nhưng nó có hương thơm mà ông ấy
có, ông ấy đã đạt được. Bài ca không phải là kết quả biên soạn của nhà thơ mà
là sự thực chứng của nhà huyền môn. Nó chỉ có một số dòng, nhưng vô cùng tráng
lệ và đẹp đến mức những ngôi sao cũng có thể cảm thấy xấu hổ.
BÀI CA CỦA
SAHARA không được dịch. Tôi nghe nó từ một vị Lama Tây Tạng. Tôi muốn nghe nó lại
nhiều lần nhưng vị Lama đã bốc mùi thậm tệ làm tôi phải nói “Cám ơn ông…” Các vị
Lama bốc mùi bởi vì họ không bao giờ tắm. Mùi của vị Lama – và tôi dị ứng với
nhiều mùi – thậm chí nghe toàn bộ bài hát cũng là điều quá sức với tôi! Tôi sợ
rằng tôi sẽ bị bệnh hen suyễn tấn công.
Tôi đã nói
nhiều về Sahara; ông ấy là một trong những suối nguồn nguyên thủy của trường
phái Mật tông.
Thứ tư:
Tilopa, và một vài ghi chép từ bài ca của ông được các môn đệ của ông chép lại.
Tôi tự hỏi, chúng ta đã bị lỡ nhiều như thế nào. Những người đó chỉ viết ra những
gì được nói bởi Bậc Thầy, không nghĩ xem là đúng hay sai, mà chỉ cố ghi lại một
cách đúng nhất có thể. Và đó là công việc khó khăn. Bậc Thầy là người điên, ông
ấy có thể nói bất kỳ điều gì, ông ấy có thể ca bất kỳ điều gì, hoặc ông ấy có
thể tĩnh lặng. Ông ấy có thể chỉ thực hiện vài cử chỉ bằng tay, và những cử chỉ
đó phải được hiểu. Đó là điều mà Meher Baba đã liên tục thực hiện trong suốt ba
mươi năm. Ông ấy vẫn tĩnh lặng, chỉ biểu hiện bởi những cử chỉ bằng tay.
Con số của
tôi sai phải không Devageet?
“Dạ không,
thưa Osho.”
Rất tốt… bởi
vì đôi khi đúng là một cảm giác tốt. Tôi thực sự giỏi với những con số. Tôi đã
hỏi đúng thời điểm, đó là sự trùng hợp kỳ lạ. Tôi luôn lẫn lộn với những con số.
Tôi không thể đếm, vì lý do đơn giản là tôi đang đối mặt với cái không thể đo,
không thể đếm. Sự thật mà tôi đang đối mặt thì hoặc là không bằng lời nói hoặc
là không bằng những con số. Sự thật siêu việt lên tất cả, và nó quá kỳ diệu đến
mức người ta lẫn lộn chúng. Mọi thứ đều đảo lộn, kỳ dị. Cho nên đây là lời khen
ngợi khi bạn nói tôi đúng. Nhưng bây giờ xin hãy nói cho tôi, số mấy?
“Số năm, thưa
Osho.”
“Cám ơn. ”
Thứ năm: Con
người mà tôi sẽ nói đến không được thừa nhận là người chứng ngộ bởi vì không có
ai thừa nhận ông ấy. Chỉ có người chứng ngộ mới có thể thừa nhận người khác.
Đây là tên của người đó D.T. Suzuki. Trong thế giới hiện đại, người đàn ông này
đã thực hiện nhiều hơn bất kỳ ai khác để biến thiền và Zen thành sẵn sàng.
Suzuki đã làm việc cả cuộc đời mình để giới thiệu cái cốt lõi nhất của Zen cho
phương Tây.
Zen là cách
phát âm tiếng Nhật đối với từ dhyana trong tiếng Sanscrit – thiền. Phật không
bao giờ dùng tiếng Sanskrit; Người ghét nó, vì lý do đơn giản rằng nó đã trở
thành ngôn ngữ của các vị tu sĩ, và tu sĩ thì luôn phục vụ quỷ dữ. Phật sử dụng
ngôn ngữ rất đơn giản, ngôn ngữ đó được sử dụng bởi những người của Phật trong
thung lũng ở Nepal. Tên của ngôn ngữ đó là Pali. Trong tiếng Pali, dhyana được
phát âm thành ch’ana. Những người bình thường, giản dị, thất học không thể đánh
giá những sự tinh tế của bất kỳ ngôn ngữ nào. Họ làm cho nó thành phù hợp với họ.
Điều đó giống như tảng đá lăn xuống dòng sông, nó trở nên tròn. Đó là cách mà mọi
ngôn từ được sử dụng bởi những người đó, bắt đầu có vẻ đẹp tròn trịa, sự giản dị
đặc biệt. Những người bình thường khó phát âm từ dhyana; họ phát âm nó thành
ch’ana. Khi nó tới Trung Quốc, từ ch’ana trở thành ch’an, và khi nó du hành tới
Nhật Bản, nó trở thành Zen. Bạn có thể nhìn thấy – nó xuất hiện ở mọi nơi – mọi
người luôn biến từ ngữ thành đơn giản.
Cuốn sách ZEN
VÀ VĂN HÓA NHẬT BẢN của D.T.Suzuki là cuốn thứ năm của tôi. Người đàn ông này
đã phục vụ nhân lại nhiều đến mức không người nào có thể vượt được ông. Công việc
của ông ấy thật lớn lao. Cả thế giới phải nợ ông và điều đó sẽ luôn là vậy.
Suzuki nên là một từ trong gia đình. Nó không… tôi đang nói rằng nó nên là vậy.
Rất ít người nhận ra, và những người nhận ra thì họ có trách nhiệm phổ biến sâu
rộng sự nhận biết của họ.
Thứ sáu: Tôi
sẽ giới thiệu một người đàn ông Pháp với bạn. Bạn sẽ ngạc nhiên. Bạn đang tự hỏi
bên trong, “Người đàn ông Pháp ư? Và lại được xếp cùng với Pythagoras,
Heraclitus, Suzuki ư? Ông ta điên thật rồi sao?”
Đúng, tôi
chưa bao giờ lành mạnh, không chỉ hai mươi lăm năm qua, hoặc một chút lâu hơn.
Trước đó tôi rất lành mạnh, nhưng cám ơn Thượng đế – nhớ lại đó chỉ là sự biểu
đạt, bởi vì không có Thượng đế, chỉ có lòng mộ đạo. Tôi không quên nhắc đến điều
đó bởi vì có mọi khả năng rằng những người theo của tôi, các môn đệ của tôi sẽ
bắt đầu tôn thờ Thượng đế – hoặc tôi như là Thượng đế. Không có Thượng đế,
không bao giờ có.
Nietzsche đã
sai khi nói, “Thượng đế chết!” – không phải vì Thượng đế không chết, mà vì ngài
không bao giờ sống thì làm sao ngài có thể chết? Để là một người chết thì người
ta phải hoàn thành mọi điều kiện sống trước đã. Đó là nơi mà Sartre sai: ông ấy
đồng ý với Niezsche. Tôi nói, “Cám ơn Thượng đế!” – tôi đã dùng câu đó bởi vì
không có câu khác để dùng trong trường hợp đó. Nhưng đó chỉ là môt câu nói,
không thỏa mãn. “Cám ơn Thượng đế” đơn giản có nghĩa điều đó là tốt, điều đó là
tuyệt đẹp.
Tôi đang cảm
nhận một niềm vui quá tuyệt diệu đến mức, Devageet, bạn sẽ phải nhắc tôi cuốn
thứ sáu mà tôi đang nói là gì.
“Người đàn
ông Pháp, thưa Osho.”
Đúng. Tôi còn
chưa nói đến tên. Cuốn sách là LET GO của Hubert Benoit. Nó nên có mặt trên giá
sách của mọi thiền nhân. Không ai đã từng viết cuốn sách một cách rất khoa học
và cũng rất thi ca như vậy. Đó là điều mâu thuẫn, nhưng ông ấy đã làm được điều
đó. Cuốn LET GO của Hubert Benoit là cuốn sách hay nhất của xã hội phương Tây
hiện đại. Liên quan đến phương Tây thì đó là cuốn hay nhất thế kỷ. Tôi đang
không tính đến phương Đông.
Thứ bảy:
Ramakrishna, cuốn sách của ông ấy là NHỮNG CHUYỆN NGỤ NGÔN. Bạn biết là tôi
không quá thích những vị thánh. Điều đó không có nghĩa là tôi thích họ một chút
– tôi hoàn toàn không thích họ. Thực tế, sự thực thì tôi ghét họ. Các vị thánh
là những thứ giả, bịp bợm, được hình thành bởi những thứ nhảm nhí. Nhưng
Ramakrishna không thuộc về họ – lại cám ơn Thượng đế! Ít nhất thì cũng có một
vài người có vẻ là thánh nhưng thực ra họ không phải là thánh.
NHỮNG CHUYỆN
NGỤ NGÔN của Ramakrishna rất đơn giản. Những chuyện ngụ ngôn buộc phải là đơn
giản. Nhớ lại những chuyện ngụ ngôn của Jesus xem? – giống như vậy. Nếu câu
chuyện ngụ ngôn là phức tạp thì nó không còn tác dụng nữa. Chuyện ngụ ngôn cần
đến chỉ để nó có thể được hiểu bởi mọi lứa tuổi của những đứa trẻ. Đúng, ý tôi
nói mọi lứa tuổi của những đứa trẻ. Có những đứa trẻ mười tuổi, có những đứa trẻ
tám tuổi và vân vân, nhưng tất cả chúng chỉ là những đứa trẻ chơi bên bờ biển,
nhặt những vỏ sò. NHỮNG CHUYỆN NGỤ NGÔN của Ramakrishna là cuốn sách thứ bảy của
tôi.
Thứ tám: NHỮNG
CHUYỆN NGỤ NGÔN CỦA AESOP. Bây giờ Aesop không thực sự là con người lịch sử;
ông ấy chưa bao giờ tồn tại. Phật đã sử dụng tất cả những câu chuyện ngụ ngôn
trong những bài thuyết giáo của mình. Vì Alexander đến Ấn Độ mà những câu chuyện
ngụ ngôn đã được mang đến phương Tây. Tất nhiên nhiều điều đã thay đổi, thậm
chí là tên của Phật. Phật được gọi là Bồ tát.
Phật đã nói
có hai dạng phật: một là La hán, là người đạt được phật tính của mình và không
còn quan tâm đến bất kỳ ai khác nữa; và Bồ tát là người đạt được phật tính và
sau đó rất nỗ lực, nỗ lực cao nhất để giúp những người khác trên con đường tu tập.
‘Bồ tát’ là từ được Alexander mang đến như là bodhisat, sau đó trở thành
Josephus; thế rồi từ Joshephus nó trở thành Aesop. Aesop không phải là con người
lịch sử, nhưng những câu chuyện ngụ ngôn lại vô cùng ý nghĩa. Đó là cuốn thứ
tám của tôi hôm nay.
Thứ chín:
MULA MADHYAMIKA KARIKA của Nagarjuna. Tôi không thích Nagarjuna lắm; ông ấy gần
như là nhà triết học, và tôi chống lại triết học. Nhưng cuốn sách MULA
MADHYAMIKA KARIKA của ông, nói gọn là cuốn KARIKAS của ông… MULA MADHYAMIKA
KARIKA có nghĩa là điều cốt lõi của con đường trung đạo – con đường trung đạo cốt
lõi. Trong cuốn KARIKAS của mình, với khả năng dùng ngôn từ, ông ấy đã đạt tới
những độ sâu nhất. Tôi chưa bao giờ nói về nó. Nếu bạn muốn nói về điều cốt
lõi, cách tốt nhất là đừng bao giờ nói cả, chỉ trở nên tĩnh lặng. Nhưng cuốn
sách vô cùng đẹp.
Thứ mười: Cuốn
cuối cùng của buổi tối hôm nay là một cuốn sách kỳ lạ; bình thường hẳn sẽ không
có ai nghĩ tôi lại tính đến nó cả. Đó là tác phẩm vĩ đại của Marpa, một nhà huyền
môn Tây Tạng. Ngay cả những người theo của ông ấy cũng không đọc nó; nó không
có ý nghĩa gì để đọc, nó là một trò chơi chữ. Bạn phải thiền về nó. Bạn phải
nhìn vào nó và thế rồi bỗng nhiên cuốn sách biến mất – những nội dung của nó biến
mất, và chỉ còn lại tinh thần.
Marpa là con
người rất kỳ lạ. Milarepa, Bậc Thầy của ông ấy từng nói, “Ngay cả tôi cũng cúi
chào Marpa.” Không có Bậc Thầy nào đã từng nói như vậy, nhưng Marpa là như vậy…
Một lần có một
người nào đó đã nói với Marpa, “Ông có tin Milarepa không? Nếu vậy thì hãy nhảy
vào đống lửa này!” Ngay lập tức ông ấy nhảy! Khi biết ông ấy đã nhảy, mọi người
đã chạy quanh để dập tắt đống lửa. Khi ngọn lửa tắt, họ thấy ông ấy đang đứng
đó trong tư thế của một vị phật và cười vui nhộn!
Họ hỏi Marpa,
“Tại sao ông lại cười?”
Ông ấy nói,
“Tôi cười bởi vì sự tin tưởng là thứ duy nhất mà ngọn lửa không thể hủy hoại.”
Đây là con
người mà những bài ca giản dị của ông tôi xếp là thứ mười – cuốn KINH THƯ
MARPA.
Thời gian của
tôi đã hết rồi phải không? Tôi có thể nghe bạn nói đúng, mặc dù tôi biết thời
gian của tôi chưa hết. Làm sao có thể hết được? Tôi luôn xuất hiện trước thời đại
mình nên mới bị hiểu sai.
Nhưng về phía
bạn thì bạn đúng; thời giờ của tôi đã hết. Và điều này thực sự đẹp. Không có sự
biểu đạt nào cho nó. Nó quá đẹp, tốt hơn là bây giờ hãy kết thúc nó.
Xem tiếp Chương 5 - Quay về Mục lục