Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Showing posts with label Những cuốn sách tôi yêu. Show all posts
Showing posts with label Những cuốn sách tôi yêu. Show all posts

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 16

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 16
1984 tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA


Tôi đã nói bao nhiêu cuốn trong tái bút của tái bút-P.P.S?
“Bốn mươi, thưa Osho.”
Bốn mươi?
“Đúng, thưa Osho.”
Bạn biết đấy, tôi là kẻ cứng đầu. Tôi sẽ kết thúc ở con số năm mươi, dù điều gì xảy ra; nếu không tôi sẽ bắt đầu P.P.P.S khác. Sự cứng đầu của tôi đã làm tôi thực sự được đền đáp: nó đã giúp tôi chiến đấu với mọi dạng vô nghĩa tràn ngập trên thế gian. Nó đã là sự giúp ích lớn lao để bảo vệ trí thông minh của tôi chống lại sự tầm thường quanh mọi người, ở mọi nơi. Cho nên tôi không cảm thấy hối tiếc rằng mình là kẻ cứng đầu; thực tế, tôi cám ơn Thượng đế rằng ngài đã biến tôi thành thế này: tuyệt đối cứng đầu.
Cuốn sách đầu tiên là của Bennett, một người Anh, một người Anh hoàn hảo. Cuốn sách này là về một nhà huyền môn tuyệt đối vô danh, Shivpuri Baba. Thế giới tình cờ biết về ông chỉ bởi cuốn sách của Bennett.
Shivpuri chắc chắn là một trong những sự nở hoa hiếm hoi nhất, đặc biệt là ở Ấn Độ, nơi rất nhiều kẻ ngốc đang giả vờ là những vị thánh. Tìm ra một người như Shivpuri Baba ở Ấn Độ là điều thực sự may mắn hoặc còn là một công việc tìm kiếm kỳ diệu. Có năm trăm nghìn vị thánh ở Ấn Độ; đó là con số thực tế. Tìm ra một con người thực sự trong đám đông này gần như là điều không thể.
Nhưng Bennett lại may mắn theo nhiều cách. Ông ấy cũng là người đầu tiên khám phá ra Gurdjieff. Không phải là Ouspensky hoặc Nicoll, hoặc là bất kỳ ai khác ngoài Bennett. Bennett tìm ta Gurdjieff trong một trại tị nạn ở Constantinople. Đó là vào những ngày cách mạng Nga. Gurdjieff  phải rời bỏ nước Nga; trên đường trước khi bỏ trốn, ông đã bị bắn hai lần. Phong cách của chúng ta là khác nhau, nhưng thật kỳ lạ là định mệnh lại chơi cuộc chơi tương tự…
Gurdjieff ở trong một trại tị nạn! – hãy nghĩ về điều đó xem, tôi không thể tin loài người lại có thể suy đồi quá chậm. Hãy đặt Phật, hay Gurdjieff, Jesus hay Bồ Đề Đạt Ma vào trại tị nạn… Khi Bennett phát hiện ra ông, Gurdjieff đang đứng xếp hàng để nhận đồ ăn. Thực phẩm chỉ được phát một lần ngày, và hàng lại quá dài. Có hàng nghìn người tị nạn đã rời bỏ nước Nga, bởi vì những người cộng sản Nga sát hại mọi người mà không xem xét những người họ sát hại là ai, vì điều gì. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết họ đã sát hại gần mười triệu người Nga.
Làm sao Bennett phát hiện ra Gurdjieff? Gurdjieff  đang đứng giữa các môn đệ của mình, sẽ không khó để nhận ra, nhưng Bennett lại nhận ra ông trong trang phục bẩn thỉu, hôi thối, đã nhiều ngày không giặt. Làm sao ông ấy đã nhận ra Gurdjieff trong hàng? Đôi mắt đó – bạn không thể giấu chúng. Đôi mắt đó – cho dù là người đàn ông đang ngồi trên ngai vàng hoặc đang trong trại tị nạn thì chúng cũng vẫn vậy. Bennett đã mang Gurdjieff tới phương Tây.
Không có ai cám ơn Bennett tội nghiệp về điều đó, và có một lý do. Bởi vì ông ấy là một dạng người do dự. Bennett không bao giờ phản bội Gurdjieff khi ông đang còn sống. Ông ấy không dám. Đôi mắt đó biểu lộ quá nhiều; ông ấy đã hai lần nhìn thấy sự ảnh hưởng khác thường của chúng. Ông ấy đã kể lại về Gurdjieff trong cuốn sách của mình – đó không phải là cuốn sách tầm cỡ, đó là lý do tôi sẽ không tính đến nó, nhưng tôi chỉ đang nhắc đến nó – Bennett nói: tôi đến với Gurdjieff sau một hành trình dài mệt mỏi và kiệt sức. Tôi đã bị bệnh, rất yếu, nghĩ rằng tôi sẽ chết. Tôi phải đến gặp ông chỉ để trước khi chết tôi có thể lại nhìn thấy đôi mắt đó… trải nghiệm cuối cùng của tôi.
Ông ấy đến phòng của Gurdjieff. Gurdjieff nhìn ông, đứng dậy, đến gần và ôm lấy ông. Bennett không thể tin vào điều đó – đó là cách của Gurdjieff. Nếu Gurdjieff có tát ông thì như thế hẳn còn hơn cả mong đợi, nhưng Gurdjieff lại ôm ông! Nhưng còn hơn cả cái ôm. Thời điểm Gurdjieff chạm vào ông, Bennett cảm nhận một sự bùng phát năng lượng. Cùng lúc đó, ông ấy nhìn thấy Gurdjieff tái đi. Gurdjieff ngồi xuống; sau đó rất khó khăn để đứng dậy và đi vào phòng tắm, ông nói với Bennett, “Đừng lo lắng, chỉ chờ mười phút và tôi sẽ quay trở lại, như đã từng.”
Bennett nói, “Tôi chưa bao giờ cảm nhận quá hạnh phúc, khỏe khoắn, mạnh mẽ như vậy. Dường như tôi có thể làm bất kỳ việc gì.”
Điều đó cũng được cảm nhận bởi nhiều người dùng các chất gây ảo giác – LSD hoặc Manijuana và các chất gây ảo giác khác – với sự ảnh hưởng của các chất đó mà họ cảm thấy có thể thực hiện bất kỳ điều gì. Một người phụ nữ nghĩ mình có thể bay, cho nên cô đã bay ra khỏi cửa sổ từ chiều cao ba mươi tầng của một tòa nhà ở New York. Bạn có thể kết luận điều gì đã xảy ra. Thậm chí những mảnh thân thể của người phụ nữ đó cũng không được tìm ra.
Bennett nói, “Tôi cảm thấy tôi có thể thực hiện mọi điều. Ở khoảng khắc đó tôi hiểu câu nói nổi tiếng của Napoleon: không có gì là không thể. Tôi không chỉ hiểu điều đó mà tôi có thể thực hiện bất kỳ điều gì tôi muốn. Nhưng tôi biết đó là lòng từ bi của Gurdjieff. Tôi đã chết, và ông ấy đã cứu tôi.”
Điều này đã xảy ra hai lần… vài năm sau. Ở phương Đông điều này được gọi là ‘sự truyền’; năng lượng có thể nhảy từ ngọn đèn này tới ngọn đèn khác đang lịm tắt. Mặc dù những trải nghiệm kỳ diệu như vậy đã xảy ra với ông, Bennett vẫn là một người do dự. Ông ấy không thể do dự và phản bội như Ouspensky, nhưng khi Guedjieff qua đời, ông ấy đã phản bội. Ông ấy bắt đầu tìm kiếm Bậc Thầy khác. Thật là điều không may! Ý tôi nói không may cho Bennett. Với những người khác thì điều đó là tốt, bởi vì đó là cách ông ấy tìm ra Shivpuri Baba. Nhưng dù Shivpuri Baba có tầm cỡ thế nào thì cũng không là gì khi so sánh với Guedjieff. Và ông là nhà khoa học, một nhà toán học… chỉ điều đó mới cho tôi manh mối. Nhà khoa học đã hành xử gần như kẻ ngốc ngoài lĩnh vực xác định của mình.
Tôi luôn định nghĩa khoa học như là ‘biết nhiều và nhiều về cái ít và ít’, và tôn giáo như là ‘biết ít và ít về cái nhiều và nhiều.’ Đỉnh cao của khoa học sẽ là biết mọi thứ về không gì cả, và đỉnh cao của tôn giáo là sẽ biết tất cả – không biết về tất cả, chỉ đơn giản là biết; không phải về mà chỉ biết. Khoa học sẽ kết thúc trong vô minh; tôn giáo sẽ kết thúc trong chứng ngộ.
Tất cả các nhà khoa học, ngay cả những nhà khoa học vĩ đại, đã chứng tỏ nhiều điều ngớ ngẩn bên ngoài lĩnh vực cụ thể của họ. Họ hành xử như trẻ con. Bennett là nhà khoa học và nhà toán học có vị trí nhất định, nhưng ông ấy đã do dự, đã bị lỡ. Ông ấy lại bắt đầu tìm kiếm Bậc Thầy khác. Và không phải là ông vẫn cùng với Shivpuri… Shivpuri Baba đã là một ông già khi Bennett gặp ông. Ông ấy gần một trăm mười tuổi, một ông già thép thực sự. Ông đã sống gần một thế kỷ rưỡi. Ông cao hai thước mốt và một trăm năm mươi tuổi, và vẫn không có dấu hiệu ông sẽ ra đi. Ông đã quyết định rời cơ thể – đó là quyết định của ông.
Shivpuri là một người trầm lặng, ông đã không thuyết giảng. Đặc biệt, một người đã biết Gurdjieff và thuyết giảng kỳ lạ của ông hẳn sẽ nhận ra nó rất bình thường với Shivpuri Baba. Bennet đã viết cuốn sách của mình và lại bắt đầu tìm kiếm Bậc Thầy. Shivpuri Baba hãy còn chưa chết.
Sau đó, ở Indonesia, Bennett đã tìm ra Mohammed Subud, người sáng lập ra phong trào được gọi là Subud. Subud là sự rút ngắn của sushil-buddha-dharma; đó chỉ là ba chữ cái đầu của ba từ đó. Ngu ngốc làm sao! Bennett bắt đầu giới thiệu Mohammed Subud, một người đàn ông rất tốt, nhưng không phải là Bậc Thầy… không gì có thể so sánh với Shivpuri Baba; không nẩy sinh câu hỏi nào về Gurdjieff. Bennett đã mang Subud tới phương Tây, và giới thiệu ông như là người kế vị của Gurdjieff. Bây giờ điều này là tuyệt đối ngu ngốc!
Nhưng Bennett viết rất hay, rất toán học, rất hệ thống. Cuốn sách tốt nhất của ông là SHIVPURI BABA. Mặc dù Bennett là một kẻ ngốc, thậm chí nếu bạn cho phép con khỉ đánh máy, tình cờ nó có thể làm ra một cái gì đó đẹp – có lẽ là một phát biểu mà chỉ có vị phật mới có thể thực hiện – chỉ bằng việc gõ lên bàn phím. Nhưng nó sẽ không hiểu nó đã viết gì.
Bennett đã tiếp tục theo cách này. Ông ấy nhanh chóng trở nên vỡ mộng với Mohammed Subud và bắt đầu tìm kiếm Bậc Thầy khác. Ông bạn đồng nghiệp tội nghiệp, toàn bộ cuộc đời ông là sự tìm kiếm và tìm kiếm điều không cần thiết. Ông ấy đã tìm ra con người đúng trong Gurdjieff. Ông ấy đã viết về Gurdjieff, và những gì ông nói thật tuyệt, hiệu quả, nhưng trái tim ông lại đen tối, trong nó không có ánh sáng. Dẫu vậy, tôi vẫn tính cuốn sách của ông như là cuốn sách hay nhất. Bạn có thể nhìn thấy tôi là người công bằng.
Thứ hai: Đây là cuốn sách lỳ lạ, không có ai đọc nó. Có thể thậm chí bạn đã không nghe về nó, nó được viết ở Mỹ. Cuốn sách là LISTEN LITTLE MAN (LẮNG NGHE MỘT NGƯỜI TẦM THƯỜNG), được viết bởi Wilhelm Reich. Đó là cuốn sách rất nhỏ, nhưng nó nhắc tôi nhớ đến cuốn BÀI THUYẾT PHÁP TRÊN NÚI, ĐẠO ĐỨC KINH, ZARATHUSTRA ĐÃ NÓI NHƯ THẾ, NHÀ TIÊN TRI. Thực tế, Reich không trong trạng thái để viết cuốn sách như vậy, nhưng chắc phải có một linh hồn vô danh nào đó chiếm lĩnh ông.
LẮNG NGHE MỘT NGƯỜI TẦM THƯỜNG đã tạo ra sự tương phản với Reich, đặc biệt là với những nhà phân tâm học chuyên nghiệp, các đồng nghiệp của ông, bởi vì ông ấy gọi mọi người là ‘người tầm thường’ – và ông ấy nghĩ mình quá vĩ đại? Tôi muốn nói với bạn: ông ấy vĩ đại! Không phải trong hoàn cảnh là một vị phật, mà trong hoàn cảnh như Sigmund Freud, Carl Gustav Jung, Assagioli. Ông ấy thuộc về đẳng cấp đó. Ông ấy là một con người tầm cỡ – tất nhiên vẫn là con người, chứ không phải là siêu nhân, nhưng tầm cỡ. Và không phải vì tính vị kỷ của ông mà cuốn sách này ra đời; ông ấy không giúp gì cho nó, ông ấy phải viết nó. Điều đó gần giống như người phụ nữ mang thai, cô ấy phải sinh ra đứa bé. Ông ấy mang trong mình cuốn sách nhỏ này trong nhiều năm, khẳng định ý tưởng viết ra nó bởi vì ông ấy biết rõ nó sẽ tạo ra địa ngục cho ông. Và đúng vậy. Sau khi cuốn sách ra đời ông ấy đã bị lên án ở mọi nơi.
Sáng tạo ra bất kỳ thứ gì khác thường trên thế giới này đều là tội ác. Con người không bao giờ thay đổi. Người ta đã giết hại Socrates, người ta đã giết hại Reich. Không có sự thay đổi nào. Họ đã kết án Reich như là kẻ điên và đã tống ông vào tù. Ông ấy chết trong ngục tù, bị lên án, bị biến thành người điên. Ông ấy có khả năng vượt lên trên những đám đông, nhưng ông không được phép. Người Mỹ vẫn phải học cách sống với những người như Socrates, Jesus, Phật.
Cuốn sách này được viết cùng bởi Bertrand Russell và Whitehead. Không có ai đọc nó. Tựa đề là PRINCIPIA MATHEMATICA (NGUYÊN LÝ TOÁN HỌC). Chỉ cái tên thôi cũng đủ làm cho mọi người sợ hãi, và chắc là cuốn sách khó nhất trong tồn tại. Do vậy, tôi đã làm việc về cuốn sách đó nhiều nhất có thể. Bất kỳ điều gì khó đều luôn lôi cuốn tôi. Cuốn sách như bỏ bùa mê và là thử thách, nhưng tôi sẽ không bình luận nó cho sannyasin của tôi. Hãy tránh điều đó! Tôi đã đọc hàng nghìn trang sách đó và không tìm ra gì ngoài toán học. Nếu bạn không quan tâm đến toán học, đặc biệt là toán học cao cấp… đó là vấn đề khác. Tôi muốn tính đến nó bởi vì nó là tác phẩm lớn – về toán học.
Thứ tư… con số có đúng không?
“Đúng, thưa Osho.”
Bạn sẽ ngạc nhiên rằng sự lựa chọn thứ tư của tôi là cuốn POETICS (NHỮNG VẦN THƠ) của Aristotle. Tôi là một kẻ thù bẩm sinh của Aristotle. Tôi gọi người đàn ông đó là Aristotle-itis… một dạng bệnh tật, không thể cứu. Devaraj, không có thuốc nào cho nó. Asheesh, chứng đau nửa đầu của bạn không là gì! Cám ơn Thượng đế là bạn đã không phải chịu đựng chứng Aristotlitis, đó là một căn bệnh ung thư thực sự.
Aristotle được cho là người cha của triết học phương Tây và logic. Ông ấy chắc chắn như vậy, nhưng chỉ về triết học và logic, chứ không phải vấn đề thực sự. Vấn đề thực sự đến từ Socrates, Pythagoras, Plotinus, Diogenes và Dionysius, chứ không phải từ Aristotle. Nhưng thật kỳ lạ: ông ấy đã viết một cuốn sách hay – và đây là một trong những cuốn sách không được các học giả Aristotle nghiên cứu – NHỮNG VẦN THƠ. Tôi phải tìm kiếm nó giữa nhiều cuốn sách của ông. Tôi đã thử xem liệu tôi có thể tìm ra một cái gì đó đẹp trong con người đó, và khi tôi tìm ta NHỮNG VẦN THƠ, một cuốn sách chỉ có vài trang, tôi đã run lên vì xúc động. Người đàn ông đó cũng có trái tim. Ông ấy đã viết mọi thứ từ cái đầu mình, nhưng cuốn sách này lại từ trái tim. Tất nhiên nó nói về điều cốt lõi của thơ ca – những vần thơ – và điều cốt lõi của thơ ca không thể là gì khác ngoài cốt lõi của tình yêu. Đó là hương thơm không phải từ trí tuệ, mà từ trực giác. Tôi tiến cử cuốn sách này.
Thứ năm. Có quá nhiều cuốn sách trước mặt tôi đến mức thật khó để chọn, nhưng tôi chọn THREE PILLARS OF ZEN (BA TRỤ CỘT ZEN) của Ross. Nhiều người đã viết về Zen – kể cả Suzuki, là người biết nó nhiều nhất – nhưng BA TRỤ CỘT ZEN là cuốn sách viết về Zen hay nhất. Nên nhớ sự nhấn mạnh của tôi: về, bởi vì Ross không có trải nghiệm nào về nó. Thực tế, điều đó làm cho nó kỳ diệu hơn: không có trải nghiệm nào, chỉ bằng việc nghiên cứu một số cuốn sách và thăm viếng các tu viện ở Nhật Bản, bà ấy đã viết một tác phẩm lớn.
Chỉ có một điều tôi muốn nói với Ross: trong Zen không có ba trụ cột, thậm chí không có nổi một trụ cột. Zen không có những trụ cột. Nó không phải là ngôi đền, nó là cái không thuần khiết. Nó không bao giờ cần những trụ cột cả. Nếu bà ấy xuất bản lại cuốn sách thì bà phải đổi tên. BA TRỤ CỘT ZEN nhìn hay, nhưng nó không đúng với tinh thần Zen. Cuốn sách được viết theo lối rất khoa học. Những người muốn hiểu Zen theo lối trí tuệ thì không thể tìm ra cuốn sách nào tốt hơn.
Thứ sáu: Sự lựa chọn của tôi cho cuốn thứ sáu là cuốn sách của một người kỳ lạ. Ông ấy tự gọi mình là ‘M’. Tôi biết tên thực của ông, nhưng ông không bao giờ cho phép ai biết nó. Tên của ông là Mahendranath. Ông ấy là người Bengal, là môn đệ của Ramakrishna.
Mahendranath ngồi dưới chân Ramakrishna trong rất nhiều năm, và viết ra những gì diễn ra xung quanh Bậc Thầy mình. Cuốn sách được biết đến như là THE GOSPEL OF RAMAKRISHNA (PHÚC ÂM CỦA RAMAKRISHNA), nhưng lại được viết bởi M. Ông ấy không bao giờ muốn tiết lộ tên mình, ông ấy muốn giữ ẩn danh. Đó là cách của người môn đệ thực sự. Ông đã làm lu mờ mình hoàn toàn.
Vào ngày Ramakrishna ra đi, bạn sẽ ngạc nhiên, M cũng đi theo. Không có gì để cho ông ấy viết nữa. Tôi có thể hiểu… sau khi Ramakrishna qua đời, việc sống hẳn sẽ khó khăn hơn chết rất nhiều. Chết còn vui sướng hơn là sống mà không có Bậc Thầy của mình.
Từng có rất nhiều Bậc Thầy, nhưng không bao giờ có người môn đệ như M tường thuật về Bậc Thầy. Ông ấy không can dự vào điều đó dù ở đâu. Ông ấy chỉ thuật lại – không phải về mình mà về Ramakrishna. Ông ấy không còn tồn tại trước mặt bậc Thầy. Tôi yêu con người này và yêu cuốn sách của ông, và nỗ lực phi thường để làm mờ nhạt mình. Thật hiếm tìm ra một người môn đệ như M. Về điều này, Ramakrishna còn may mắn hơn Jesus nhiều. Tôi biết tên thực của ông bởi vì tôi đã du hành nhiều ở Bengal, và Ramakrishna vẫn còn sống ở cuối thế kỷ trước, cho nên tôi có thể tìm ra tên của người đàn ông này là Mahendranath.
Thứ bảy. Có một nhà huyền môn Ấn Độ ở đầu thế kỷ này. Tôi không nghĩ ông ấy là người đã chứng ngộ, bởi vì ông đã phạm ba sai lầm; ngược lại, tuyển tập tác phẩm của ông lại tuyệt đẹp, thuần khiết thi ca… nhưng ba sai lầm đó phải được nhớ. Ngay cả một người như Ramateertha cũng có thể phạm những sai lầm ngớ ngẩn như vậy.
Ông ấy đã ở Mỹ. Ông ấy là một người có uy tín và được tôn kính. Khi ông quay trở về Ấn Độ, ông ấy nghĩ, đầu tiên nên tới Varanasi, thành trì của tôn giáo Hindu, Jerusalem của người Hindu – Mecca của họ. Ông ấy tin tưởng rằng nếu người Mỹ đã tôn kính ông quá nhiều thì chắc chắn những người Bà la môn ở Varanasi cũng sẽ tôn thờ ông như một vị thần. Ông ấy đã sai. Khi ông thuyết giảng ở Varanasi, một người Bà la môn đã đứng lên và nói, “Trước khi ông đi quá xa, xin trả lời câu hỏi của tôi. Ông có biết tiếng Sanskrit không?”
Ramateertha đã thuyết giảng về thực tại tối thượng, và vị Bà la môn này đã hỏi ông, “Ông có biết tiếng Sanskrit không? Nếu ông không biết thì ông không có quyền nói về thực tại tối thượng. Đầu tiên hãy đi mà học tiếng Sanskrit.”
Không có gì sai với người Bà la môn; người Bà la môn trên khắp thế giới đều như vậy. Điều làm tôi ngạc nhiên là Ramateertha đã bắt đầu học tiếng Sanskrit. Điều đó làm tôi bị sốc. Ông ấy nên nói với người Bà la môn kia, “Xéo đi, hãy đi với tất cả những Veda và Sanskrit của ông! Tôi không quan tâm. Tôi biết sự thật, tại sao tôi lại bận tâm về việc biết tiếng Sanskrit?”
Ramateertha không biết tiếng Sanskrit, điều đó là sự thật, và cũng không cần – nhưng ông ấy đã cảm thấy có nhu cầu. Đó là điều đầu tiên tôi muốn bạn nhớ. Những cuốn sách của ông rất thi ca, nhập định, nhưng người đàn ông lại bị lạc ở đâu đó.
Thứ hai: Khi vợ ông từ Punjab xa xôi đến gặp ông, ông đã từ chối. Ông ấy không bao giờ từ chối bất kỳ người phụ nữ nào, tại sao ông lại từ chối vợ mình? Bởi vì ông ấy sợ. Ông ấy vẫn còn quyến luyến. Tôi cảm thấy tiếc cho ông ấy: từ bỏ vợ mình mà vẫn còn sợ.
Thứ ba, ông ấy đã tự sát – mặc dù người Hindu không gọi điều đó là như vậy, họ gọi điều đó là ‘tự làm tan rã mình trong sông Hằng’. Bạn có thể đặt những cái tên đẹp cho những điều xấu xa.
Ngoại trừ ba điều đó, những cuốn sách của Ramateertha rất giá trị, nhưng nếu bạn quên ba vấn đề đó thì bạn lại nghĩ ông ấy như là người chứng ngộ. Ông ấy thuyết giảng cứ như mình là một người chứng ngộ, nhưng đó chỉ là ‘cứ như’.
Thứ tám: Cuốn sách PRINCIPIA ETHICA (NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC) của G.E.Moore. Tôi yêu cuốn sách này. Nó là một bài tập tuyệt vời về logic. Ông ấy phải dùng đến hơn hai trăm trang giấy chỉ để xem xét một câu hỏi: điều thiện là gì? – và đến với kết luận rằng ‘thiện’ là không thể định nghĩa. Tuyệt vời! Nhưng ông ấy đã làm những bài tập ở nhà của mình, ông ấy đã không nhảy tới kết luận như các nhà huyền môn làm. Ông ấy là nhà triết học. Ông ấy đi từng bước một, từ từ, nhưng ông đã đến với cùng kết luận như các nhà huyền môn.
Thiện là không thể định nghĩa, vẻ đẹp cũng vậy, Thượng đế cũng vậy. Thực tế, tất cả những thứ giá trị đều không thể định nghĩa. Hãy chú ý điều đó: nếu bất kỳ điều gì có thể được định nghĩa, điều đó có nghĩa nó không giá trị gì. Nếu bạn không đến với điều không thể định nghĩa thì bạn không đến với bất kỳ điều gì giá trị.
Thứ chín… Tôi đã bỏ lại cuốn THE SONGS OF RAHIM (NHỮNG BÀI CA CỦA RAHIM) khỏi danh sách của tôi, nhưng tôi không thể làm thế được nữa. Ông ấy là một người Hồi giáo, nhưng những bài ca của ông lại được viết bằng tiếng Hindi cho nên người Hồi giáo không thích ông, họ không chú ý đến ông. Người Hindu không thích ông bởi vì ông là người Hồi giáo. Có thể tôi là người duy nhất kính trọng ông. Tên đầy đủ của ông là Rahim Khan Khana. Những bài ca của ông có cùng độ cao và chiều sâu như Kabir, Meera, Sahajo và Chaitanya. Tại sao ông ấy lại viết bằng tiếng Hindi? Là một người Hồi giáo, ông có thể viết bằng tiếng Urdu, và ngôn ngữ Urdu đẹp hơn ngôn ngữ Hindi nhiều. Nhưng ông ấy đã chọn một cách chủ ý; ông ấy muốn đấu tranh với Hồi giáo chính thống.
Thứ mười, Mirza Ghalib, một nhà thơ Urdu danh tiếng – không chỉ là nhà thơ Urdu vĩ đại nhất mà có lẽ không có nhà thơ nào của bất kỳ ngôn ngữ nào trên thế giới có thể so sánh với ông. Cuốn sách của ông được gọi là DIVAN. DIVAN có nghĩa đơn giản là tuyển tập thơ. Ông ấy khó đọc, nhưng nếu bạn có một chút nỗ lực thì kết quả lại tuyệt vời. Dường như mỗi dòng đều chứa toàn bộ cuốn sách. Và đó là vẻ đẹp của tiếng Urdu. Tôi nói không ngôn ngữ nào có thể chứa đựng quá nhiều trong một cuốn sách nhỏ như vậy. Chỉ hai câu là đủ để chứa toàn bộ cuốn sách. Đó là ma thuật! Mirza Ghalib là nhà ma thuật của ngôn ngữ đó.
Thứ mười một, và là cuốn sách cuối cùng – cuốn THE BOOK (KINH THƯ) của Alan Watts. Tôi đã để dành nó. Alan Watts không phải là một vị phật, nhưng vào một ngày ông có thể như vậy. Ông ấy đã di chuyển gần hơn tới điều đó. KINH THƯ là cuốn sách vô cùng quan trọng. Đó là kinh của ông, toàn bộ trải nghiệm của ông với các Bậc Thầy Zen, các nhà kinh điển. Và ông là một người vô cùng thông minh; ông cũng là một kẻ nghiện ngập. Trí thông minh cộng với rượu đã tạo ra một cuốn sách đậm màu sắc. Tôi yêu cuốn KINH THƯ và tôi đã để dành nó làm cuốn cuối cùng.
Kết thúc quyển "Những cuốn sách tôi yêu" - Quay về Mục lục

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 15

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 15
1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram Oregon, USA


Được thôi. Cuốn sách đầu tôi sẽ nói trong P.P.S này là một cuốn mà không ai nghĩ tôi sẽ nói đến. Đó là cuốn tự truyện của Mahatma Gandhi, MY EXPERIMENTS WITH TRUTH (NHỮNG THỬ NGHIỆM CỦA TÔI VỚI SỰ THẬT). Nói về những thử nghiệm của ông ấy với sự thật thực sự là điều tuyệt vời. Đây là thời điểm đúng.
Ashu, bạn vẫn tiếp tục và tiếp tục; nếu không tôi sẽ bắt đầu chỉ trích Mahatma Gandhi. Hãy tiếp tục và tiếp tục để tôi có thể dịu dàng với người đàn ông tội nghiệp đó. Cho đến bây giờ, tôi chưa từng dịu dàng. Có lẽ bạn có thể giúp tôi trở nên một chút dịu dàng, ngay cả với Mahatma Gandhi… mặc dù tôi biết điều đó gần như là không thể.
Nhưng tôi có thể chắc chắn nói một vài điều tuyệt đẹp. Một: không ai từng viết tự truyện mà lại thành thực như vậy, quá xác thực. Đó là một trong những cuốn tự truyện đích thực nhất từng được viết.
Tự truyện là một thứ kỳ lạ: bạn đang viết về mình. Hoặc là bạn bắt đầu huênh hoang hoặc là bạn bắt đầu rất khiêm nhường – cũng là cách thức khác của huênh hoang. Tôi sẽ không nói về điều đó trong cuốn sách thứ hai. Nhưng Mahatma Gandhi lại không phải như hai thứ đó; ông ấy giản dị, chỉ kể lại thực tế, như một nhà khoa học… tuyệt đối không liên quan, không ai nghĩ đó lại là cuốn tự truyện của ông. Ông ấy nói mọi điều mà người ta muốn giấu những người khác. Nhưng chính tựa đề lại sai. Con người không thể thử nghiệm sự thật. Người ta có thể biết nó hoặc không biết nó; nhưng người ta không thể thử nghiệm nó.
Chính từ thử nghiệm lại thuộc về thế giới khách quan. Người ta không thể thử nghiệm với tính chủ quan, và đó là sự thật. Hãy chú ý rằng:
Tính chủ quan không thể thay đổi thành bất kỳ đối tượng thử nghiệm, sự quan sát nào.
Tính chủ quan là hiện tượng huyền bí nhất trong tồn tại, và sự huyền bí của nó là ở chỗ, nó luôn quay trở lại và quay trở lại. Dù bạn quan sát gì, đó không phải là ‘nó’… đó không phải là tính chủ quan. Tính chủ quan luôn luôn là người quan sát chứ không phải đối tượng quan sát. Bạn không thể thử nghiệm với sự thật, bởi vì thử nghiệm chỉ có thể với những sự vật, những đối tượng, chứ không với tâm thức.
Mahatma Gandhi là một người tốt, chân thành, nhưng ông ấy không phải là một thiền nhân. Và nếu người ta không phải là thiền nhân thì dù tốt thế nào cũng là vô dụng. Ông ấy đã thử nghiệm cả cuộc đời mình và không đạt được gì. Ông ấy ra đi như một người vô minh vậy. Đó là điều không may, bởi vì thật khó để tìm ra một người quá vẹn toàn, thành thực, tử tế, và ước mong mãnh liệt để biết sự thật. Nhưng chính ước mong đó lại trở thành rào cản.
Sự thật được biết đến chỉ bởi những người như tôi, những người không bao giờ bận tâm về nó, không bao giờ lo lắng về nó. Thậm chí nếu Thượng đế có gõ lên ô cửa của tôi thì tôi cũng sẽ không mở. Ngài sẽ phải tìm ra cách của mình để mở nó. Sự thật đến với những người lười biếng như vậy. Do vậy mà tôi đã tự gọi mình là sự Hướng dẫn của Người Lười biếng tới Chứng ngộ. Bây giờ tôi có thể bổ sung thêm một điều để nó có thể trở nên hoàn thiện: tôi là sự hướng dẫn của người lười biếng tới chứng ngộ, và cũng tới không-chứng ngộ nữa! Điều đó sẽ vượt lên chứng ngộ.
Tôi cảm thông với ông ấy, mặc dù tôi đã luôn chỉ trích ông về hoạt động chính trị, xã hội của ông và toàn bộ ý tưởng ngớ ngẩn của ông về bánh xe quay ngược thời gian – bạn có thể gọi nó là bánh xe quay tơ. Ông ấy muốn con người lại trở thành nguyên thủy. Ông ấy chống lại mọi công nghệ, thậm chí là chống lại hệ thống đường sắt tồi tàn, điện tín, hệ thống bưu chính. Không có khoa học con người sẽ là con khỉ đầu chó. Con khỉ đầu chó có thể rất khỏe… nhưng con khỉ là con khỉ. Con người phải vượt lên phía trước.
Thậm chí tôi còn chống lại tựa đề cuốn sách, bởi vì đó không chỉ là tựa đề, nó là sự tóm lược cả cuộc đời ông ấy. Ông ấy nghĩ vì mình đã được giáo dục ở nước Anh, ông ấy là người đàn ông Anh Ấn hoàn hảo – tuyệt đối của triều đại Vitoria. Đó là những người đến với địa ngục, những người thuộc triều đại Victoria! Ông ấy rất nghi thức, kiểu cách, tất cả những dạng ngu ngốc Anh quốc. Bây giờ chắc Chetana phải tổn thương lắm. Chetana, tha lỗi cho tôi. Chỉ tình cờ mà bạn ở đây, và bạn biết tôi đó – tôi luôn tìm ra một cái gì đó để đánh mọi người.
Nhưng Chetana thật may mắn: cô ấy không phải là quý bà Anh quốc, cô ấy là một người mê mẩn Osho! Và cô ấy đến từ một gia đình Anh nghèo, điều đó là tốt. Cha của cô ấy là một ngư dân, giản dị. Cô ấy không phải là người hợm hĩnh; ngược lại các quý bà Anh quốc, còn hơn các quý ông, luôn hếch mũi lên, cứ như họ đang nhìn những vì sao. Họ thực sự bốc mùi – thứ mùi hợm hĩnh!
Mahatma Gandhi được giáo dục ở Anh; có lẽ điều đó làm hỏng ông. Có lẽ ông ấy hẳn sẽ tốt hơn nếu ông vẫn không được giáo dục, và thế rồi ông ấy sẽ không thử nghiệm sự thật, mà sẽ trải nghiệm sự thật.
Thử nghiệm sự thật? Rác rưởi! Ngớ ngẩn! Nếu người ta muốn biết sự thật thì phải trải nghiệm.
Thứ hai: cuốn sách CONFESSIONS (THÚ TỘI) của thánh Augustine. Augustine là người đầu tiên đã viết tiểu sử của mình mà không sợ, nhưng ông ấy đã đi tới cực đỉnh khác. Chính vì vậy mà tôi đánh giá cao Gandhi. Trong cuốn THÚ TỘI của mình, Augustine thú tội quá nhiều – thậm chí là những tội lỗi mà ông chưa bao giờ phạm phải! – chỉ hoàn toàn vì niềm vui thú tội. Niềm vui gì vậy! Vì niềm vui tuyệt đối khi nói với thế giới rằng “Không có tội lỗi nào mà tôi không phạm phải. Tôi đã phạm mọi tội lỗi mà con người có thể.”
Điều này không thật. Không con người nào có thể phạm mọi tội lỗi. Không người nào có khả năng làm điều đó, ngay cả chính Thượng đế. Nói gì về Thượng đế, ngay cả quỷ dữ cũng sẽ bắt đầu nghĩ làm sao vui với những thứ mà Aigustine đang thú tội! Augustine đã cường điệu!
Cường điệu là một trong những căn bệnh phổ biến của các vị thánh. Họ cường điệu mọi thứ, thậm chí cả những tội lỗi của họ; thế rồi, lẽ tự nhiên, họ trở nên có khả năng cường điệu những đức hạnh của họ. Đó là phần thứ hai của câu chuyện. Khi bạn cường điệu những tội lỗi của bạn, điều đó chắc chắn chống lại nền tảng, ngay cả những đức hạnh bình thường của bạn nhìn cũng rất to tát, rất chói sáng – tia chớp lóe lên từ những đám mây đen. Những đám mây đen làm nổi bật tia chớp. Không có những tội lỗi bạn không thể trở thành một vị thánh. Tội lỗi càng ghê gớm thì vị thánh càng vĩ đại – một phép toán số học đơn giản.
Nhưng tôi vẫn tính cuốn sách bởi vì nó được viết rất đẹp. Tôi là con người như vậy đó, xin hãy ghi lại, hãy để nó được ghi lại rằng nếu bạn nói dối tuyệt hay thì tôi sẽ đánh giá cao vì vẻ đẹp của nó. Không phải vì sự dối trá – ai quan tâm là dối trá hay không! Vẻ đẹp của nó làm cho nó xứng đáng được yêu thích, được đánh giá cao.
THÚ TỘI là một tác phẩm lớn về những lời nói dối. Nó tràn ngập sự dối trá. Nhưng người đàn ông đã thực hiện công việc của mình gần như hoàn hảo. Tôi nói gần như bởi vì luôn có khả năng người nào đó thực hiện công việc còn tốt hơn. Nhưng ông ấy đã thực hiện điều đó gần như chín mươi chín phần trăm hoàn hảo; không còn lại nhiều cơ hội cho bất kỳ ai. Đúng, sau ông ấy nhiều người đã cố, ngay cả một người vĩ đại như Leo Tolstoy. Tôi đã nói về những cuốn sách của ông, PHỤC SINH và CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH. Xuyên suốt cuộc đời mình ông đã cố viết những thú tội của mình, nhưng về điều đó ông đã không thể thành công. Augustine có vẻ là người không thể vượt qua, dù là một người như Tolstoy. Nhưng, Tolstoy, xin đừng nổi cáu; tôi sẽ đặt ông vào danh sách của tôi.
Thứ ba: cuốn sách ANNA KARENINA của Leo Tolstoy, một cuốn tiểu thuyết nhẹ nhàng nhưng rất đẹp. Bạn phải ngạc nhiên vì sao tôi lại tính một cuốn tiểu thuyết trong danh sách của mình. Chỉ bởi vì tôi là kẻ điên! Tôi thích mọi thứ. ANNA KARENINA là một trong những cuốn sách tôi yêu nhất. Bao nhiêu lần tôi đã đọc nó, tôi không thể nhớ. Ý tôi nó là số lần đọc – tôi nhớ cuốn sách một cách hoàn hảo, tôi có thể kể lại toàn bộ cuốn sách.
Nhìn xem! Ashu đã thốt ra một tiếng thở dài; chắc cô ấy đã trở nên lo lắng: bây giờ gã điên này sẽ kể lại toàn bộ cuốn ANNA KARENINA! Không, Ashu, đừng lo lắng, tôi sẽ không kể đâu. Tôi phải làm nhiều việc khác. Có lẽ một lúc nào đó, chứ không phải bây giờ.
Nếu tôi có bị dìm xuống đại dương và phải chọn một cuốn tiểu thuyết trong hàng triệu cuốn trên thế gian thì tôi sẽ chọn cuốn ANNA KARENINA. Thật tuyệt vời khi có được cuốn sách hay đó. Nó phải được đọc đi đọc lại; chỉ có thế thì bạn mới có thể cảm nhận nó, ngửi nó, và nếm trải hương hương vị. Đó không phải là cuốn sách bình thường.
Như là vị thánh thì Leo Tolstoy đã thất bại, giống như mahatma Gandhi cũng đã thất bại, nhưng Leo Tolstoy là một nhà tiểu thuyết vĩ đại. Mahatma Gandhi đã thành công như là – và sẽ mãi mãi – là đỉnh tháp cao về lòng thành thực. Tôi không biết có người đàn ông nào của thế kỷ này lại quá chân thành như vậy. Khi ông ấy viết ‘người bạn chân thành của bạn’, ông ấy thực sự chân thành. Khi bạn viết ‘người bạn chân thành của bạn’, bạn biết, và mọi người cũng biết, và người mà bạn đang viết cho cũng biết, tất cả đó chỉ là nhảm nhí. Để trở thành ‘người bạn chân thành của bạn’ thực sự là điều rất khó, gần như không thể. Điều đó biến con người thành tôn giáo – chân thành.
Leo Tolstoy muốn trở nên tôn giáo nhưng không thể. Ông ấy đã rất cố. Tôi cảm thấy vô cùng cảm thông với nỗ lực của ông, nhưng ông ấy không phải là người tôn giáo. Ông ấy phải đợi ít nhất là vài kiếp nữa. Ông ấy không phải là người tôn giáo, cũng giống như Muktananda, điều đó là tốt; nếu không ông đã lỡ PHỤC SINH, CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH, ANNA KARENINA, và nhiều cuốn sách đẹp hơn, hay hơn khác. Thế thì ông ấy hẳn sẽ trở thành một Swami Idiotananda khác, và không còn gì khác.
Thứ tư, Ajit Sarasw… Ajit Mukherjee. Ông ấy đã thực hiện một sự phục vụ vĩ đại cho Mật tông. Tôi sẽ tính hai cuốn sách của ông.
Thứ tư: Cuốn THE ART OF TANTRA (NGHỆ THUẬT CỦA MẬT TÔNG) của Ajit Mukherjee, và thứ năm là cuốn khác của ông, NHỮNG BỨC HỌA MẬT TÔNG – hoặc có lẽ là THE TANTRA PAINTINGS (NHỮNG BỨC HỌA MẬT TÔNG). Người đàn ông đó vẫn còn sống, và tôi đã yêu ông vì hai cuốn sách đó, bởi vì chúng là những tác phẩm lớn – những bức tranh nghệ thuật, và những nhận xét của ông về những bức tranh. Những hướng dẫn của ông là vô cùng giá trị.
Nhưng chính người đàn ông lại có vẻ chỉ là một người Bengal tầm thường. Chỉ mấy ngày trước ông ấy đã gặp Laxmi ở New Delhi. Ông đến gặp cô ấy và đã thú nhận rằng ông muốn tặng toàn bộ tuyển tập về Mật tông của ông cho tôi. Chắc ông ấy có một trong những bộ sưu tập các bức tranh Mật tông và nghệ thuật Mật tông giá trị nhất và phong phú nhất. Ông đã nói với Laxmi, “Tôi muốn trao nó cho ông ấy bởi vì ông ấy là người duy nhất có khả năng hiểu nó và biết ý nghĩa của nó, nhưng tôi lại quá sợ.” Ông ấy nói, “Chỉ liên quan đến ông ấy thôi, dù là thế nào, thì cũng có thể gây rắc rối cho tôi, cho nên cuối cùng tôi đã hiến toàn bộ bộ sưu tập suốt đời của tôi cho chính phủ Ấn Độ.”
Tôi yêu hai cuốn sách đó – nhưng nói gì về người đàn ông đó: Ajit Mukherjee hay là Ajit Mouse (Ajit Chuột)? Quá sợ! – và sợ như thế thì liệu có thể hiểu Mật tông không? Không thể! Những gì ông ấy đã viết chỉ là trí năng. Đó không phải, và không thể là, của trái tim. Ông ấy không có trái tim. Tôi biết, liên quan đến sinh lý học thì ngay cả con chuột cũng có tim – nhưng đó không phải là tim, đó chỉ là phổi. Chỉ có con người mới có một cái gì đó hơn lá phổi… trái tim; và trái tim chỉ phát triển trong bầu không khí của lòng can đảm của tình yêu, của thử thách. Và con người đó mới tội nghiệp làm sao! Dẫu vậy tôi vẫn đánh giá cao hai cuốn sách của ông. Con chuột đã thực hiện một công việc đáng kể. Hai cuốn sách đó sẽ mãi có tầm quan trọng lớn lao đối với Mật tông, và với những người tìm kiếm sự thật. Hãy quên và hãy tha thứ cho Ajit Chuột – ý tôi nói Ajit Mukherjee.
Xin hãy nhớ rằng tôi không chống lại ông, Ajit Mukherjee, hoặc bất kỳ ai khác. Tôi không phải là kẻ thù của bất kỳ ai trên thế gian này, mặc dù có hàng triệu người coi tôi như kẻ thù. Đó là việc của họ; tôi không có gì liên quan tới điều đó. Ajit Mukherjee, tôi yêu ông bởi vì ông đã phục vụ Mật tông rất tốt. Mật tông cần nhiều học giả, triết gia, họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, để kiến thức cổ có thể trở nên sống động trở lại, và ông đã có một chút góp sức.
Thứ sáu – đây là cuốn sách mà tôi đã luôn muốn nói đến; thậm chí nó đã có trong lịch trình nói chuyện sáng bằng tiếng Anh của tôi. Tôi đã nói về nó bằng tiếng Hindi và nó cũng có thể được dịch. Đó là cuốn sách được viết bởi Shankaracharya – không phải là kẻ ngốc hiện nay, mà là Adi Shankaracharya, một người nguyên bản.
Cuốn sách có một nghìn năm tuổi, và nó không là gì mà chỉ là bài ca ngắn: “BHAJ GOVINDAM MOODH MATE – O Idiot…” bây giờ, Devageet, hãy chú ý nghe: tôi đang không nói với bạn rằng đó là tiêu đề của cuốn sách. BHAJ GOVINDAM – ca bài ca về Chúa trời – MOODH MATE, Oidiot. O Idiot, ca bài ca về Chúa Trời.
Nhưng những kẻ ngốc lại không nghe. Họ không bao giờ nghe bất kỳ ai, họ bị điếc. Thậm chí nếu họ có nghe thì họ cũng không hiểu. Họ là những người ngu xuẩn. Thậm chí nếu họ có thể hiểu, họ cũng không theo; và nếu bạn không theo thì hiểu là điều vô nghĩa. Hiểu là hiểu chỉ khi nó được chứng minh bởi việc theo của bạn.
Shankaracharya đã viết nhiều cuốn sách nhưng không có cuốn nào lại quá tuyệt như bài ca này: BHAJ GOVINDAM MOODH MATE. Tôi đã nói nhiều về ba hoặc bốn từ đó thành gần ba trăm trang. Nhưng bạn biết tôi thích ca những bài ca như thế nào; nếu tôi có cơ hội tôi sẽ đi đến cùng. Nhưng ở đây, tôi muốn ít nhất là nói đến cuốn sách.
Thứ bảy, một cuốn sách khác được viết bởi Ludwig Wittgenstein. Ông ấy cũng là một trong những tình yêu của tôi. Tên của cuốn sách là PHILOSOPHICAL PAPERS (NHỮNG BÀI BÁO TRIẾT HỌC). Đó không phải là cuốn sách, mà đúng hơn là tuyển tập những bài báo xuất hiện ở những thời điểm khác nhau. Mỗi bài báo đều tuyệt. Wittgenstein không thể làm khác được. Ông ấy có khả năng tạo ra vẻ đẹp mà không phải không logic, và cũng viết thơ bằng văn xuôi. Tôi không nghĩ ông ấy từng coi mình như là nhà thơ, nhưng tôi tuyên bố ông ấy là nhà thơ hạng nhất. Ông ấy cùng đẳng cấp với Kalidas, Shakespeare, Milton hoặc Goethe.
Thứ bảy: Cuốn ZEN FLESH, ZEN BONES (ZEN BẰNG THƯƠNG BẰNG THỊT) của Paul Rep. Đó là một tác phẩm tầm cỡ – ông ấy đã không sáng tạo ra nó nên nó không phải là bản gốc, mặc dù không là nguyên bản nhưng nó còn ý nghĩa hơn một bản dịch. Chính nó là tiêu chuẩn. Theo cách này nó là bản gốc, theo cách khác nó là một bản dịch. Nó là bản dịch từ những giai thoại Zen và tác phẩm nguyên bản. Tôi biết bởi vì tôi đã đọc hầu hết mọi cuốn sách được viết về Zen, và không gì có thể so sánh với cuốn sách của Paul Reps. Ông ấy bắt được cái thoáng qua. Ông ấy cũng có cùng hương vị như Basho hay Rinzai có.
Người đàn ông đó vẫn sống đâu đó ở California. Trong cuốn sách mỏng của ông không chỉ có những giai thoại Zen được tuyển tập mà còn có MẬT TÔNG VIGYAN (BHAIRAV VIGYAN BHAIRAV TANTRA) – một trăm mười hai câu kinh của Shiva cho Parvati, người yêu dấu của ông, trong những câu kinh đó Shiva nói về mọi chìa khóa. Tôi không thể hình dung lại có thể có thứ gì để thiền hơn là MẬT TÔNG VIGYAN BHAIRAV. Một trăm mười hai chìa khóa là đủ – chúng dường như đủ; một trăm mười ba sẽ nhìn không hợp lý. Một trăm mười hai nhìn thực sự bí truyền, đẹp.
Cuốn sách này rất nhỏ, bạn có thể mang nó trong túi mình; nó là cuốn sách bỏ túi. Nhưng bạn cũng có thể mang viên kim cương Kohinoor trong túi của bạn… mặc dù Kohinoor được khảm vào vương miện nước Anh, và bạn không thể bỏ trong túi mình. Nhưng điều đẹp nhất về Paul Reps là ông đã không bổ sung một từ nào của chính ông – đó là điều không thể tin. Ông ấy đơn giản là dịch, chỉ dịch – và không chỉ dịch, mà ông ấy còn mang bông hoa Zen đến với tiếng Anh. Bông hoa đó không được tìm ra ở bất kỳ người viết tiếng Anh nào về Zen. Ngay cả Suzuki cũng không có khả năng làm điều đó, bởi vì ông ấy là người Nhật. Mặc dù đã chứng ngộ nhưng ông ấy đã không thể mang hương thơm của chứng ngộ đến với những cuốn sách của mình. Tiếng Anh của Suzuki rất đẹp nhưng rất không sáng tỏ, có lẽ nó làm kích thích nhưng tuyệt đối không sáng tỏ.
Paul Reps đã thực hiện một việc gần như không thể, là người Mỹ, tôi nhắc lại, nhưng ở ông lại tràn ngập hương thơm của Zen. Và không chỉ chính ông có nó mà còn mang nó ra khắp thế giới bởi ZEN BẰNG THƯƠNG BẰNG THỊT. Thế giới cũng nên cám ơn ông ấy mãi mãi, mặc dù ông không phải là người chứng ngộ. Chính vì vậy mà tôi nói ông ấy đã thực hiện một việc gần như không thể.
Thứ chín… Tôi đang chờ bạn lên một chút cao hơn, bởi vì tôi sẽ nói về một cái gì đó thuộc về những đỉnh cao, những đỉnh cao tối thượng. Tốt… nhưng đừng dừng lại. Tốt không có nghĩa là dừng, nó đơn giản có nghĩa là tiếp tục, tiếp tục… CHARAIVETI, CHARAIVETI.
Dù sao chăng nữa, cuốn sách mà tôi sẽ nói đến như là thứ chín là cuốn ZEN BUDDHISM (ZEN PHẬT GIÁO) của Chrismas Humphries. Ban đầu ông ấy muốn gọi nó là TIẾP TỤC, TIẾP TỤC – như là lời dịch từ CHARAIVETI, CHARAIVETI – hoặc BƯỚC ĐI, BƯỚC ĐI. Nhưng sau tất cả thì người Anh vẫn là người Anh; cuối cùng ông ấy đã bỏ ý tưởng và gọi nó là cuốn ZEN PHẬT GIÁO.
Cuốn sách hay nhưng cái tên lại xấu bởi vì Zen không có gì liên quan đến bất kỳ ‘học thuyết’ nào, Phật giáo hoặc điều gì khác. ZEN PHẬT GIÁO không phải như là tên gọi. Chỉ Zen là đủ. Humphries viết trong nhật ký của mình rằng ông đã chọn CHARAIVETI, CHARAIVETI như là sự ưa thích đầu tiên của ông cho tên sách, nhưng sau đó ông ấy nghĩ nó quá dài. BƯỚC ĐI, BƯỚC ĐI … TIẾP TỤC, TIẾP TỤC. Ông ấy đã đổi tên và biến nó thành một cái gì đó xấu xí: ZEN PHẬT GIÁO. Nhưng cuốn sách thì hay. Nó đã giới thiệu cho hàng triệu người phương Tây thế giới của Zen. Nó đã mang đến một sự phục vụ lớn lao.
Người đàn ông Humphries này là môn đệ của D.T.Suzuki, và ông ấy đã phục vụ Bậc Thầy mà không ai khác đã từng làm, đặc biệt là ở phương Tây. Ông ấy vẫn mãi dâng hiến cả đời mình cho Suzuki.
Hôm qua Gudia đã nói với tôi rằng cô đã nói với Devageet, “Nếu bạn sống với Osho như tôi, thậm chí chỉ một tháng, thì bạn sẽ biết đó là gì – khó chịu.” Tôi biết đó chắc chắn là khó chịu. Cùng với người chứng ngộ là khó chịu – và cùng với người đã vượt lên chứng ngộ thì thậm chí còn khó chịu hơn.
Nhưng Humphries sẵn sàng trở thành môn đệ; ông ấy vẫn thành thực và trung thành và nghe lời Suzuki cho tới giây phúc cuối cùng cuộc đời Bậc Thầy và của chính ông. Ông ấy đã không dao dộng dù chỉ một thời điểm. Bạn có thể nhận ra tinh thần không dao động trong cuốn sách của ông.
Thứ mười… cuốn sách cuối cùng cho buổi này. Đó là cuốn sách rất nhỏ, chỉ được biết đến bởi một số rất ít người trên thế giới, nhưng nó cần được tuyên bố công khai cho cho mỗi và mọi người. Đó là cuốn THE SONGS OF CHANDIDAS(NHỮNG BÀI CA CỦA CHANDIDAS) – một người điên Bengal, một Baul. Từ Baul có nghĩa là người điên. Chandidas nhảy múa và hát ca từ làng này tới làng khác và không biết ai đã tuyển lựa những bài hát của ông. Chắc phải là người nào đó có tinh thần cao cả và rộng lượng, quá rộng lượng đến mức đã không nhắc đến tên mình.
NHỮNG BÀI CA CỦA CHANDIDAS… tôi cảm nhận nỗi kính sợ. Chỉ cái tên Chandidas thôi mà tim tôi bắt đầu thổn thức khác nhịp rồi. Ông là người đàn ông mới tuyệt vời làm sao, một nhà thơ kỳ lạ! Có hàng nghìn nhà thơ, nhưng Chandidas cùng hàng với những người như Solomon, không thấp hơn thế. Nếu Solomon có thể so sánh với bất kỳ ai thì đó là Chandidas.
Những bài ca của Chandidas nói lên những điều kỳ lạ – về Thượng đế là người không tồn tại. Chandidas cũng biết Thượng đế không tồn tại, nhưng ông ấy ca về mình bởi vì Thượng đế chỉ đại diện cho tồn tại. Thượng đế không tồn tại; ngài là tồn tại.
Chadidas cũng hát ca về thiền, mặc dù không thể nói gì về thiền – nhưng ông ấy vẫn nói một cái gì đó không thể không chú ý đến. Ông ấy nói: thiền tương đương với không-tâm trí. Một công thức mới tuyệt vời làm sao! Albert Einstein hẳn cũng phải ghen tị với Chandidas. Than ôi, Einstein không biết gì về Chandidas hay thiền. Một trong những người vĩ đại nhất của thời đại này, ông ấy tuyệt đối không nhận biết về thiền. Ông ấy nhận biết mọi thứ ngoại trừ chính mình.
Chandidas ca những bài ca về tình yêu, về nhận biết, về vẻ đẹp, về tự nhiên. Có một số ít bài không liên quan với bất kỳ điều gì; tuyệt đối vui vẻ, niềm vui hát ca – ý nghĩa không bao giờ quan trọng cả.
Đó là cuốn thứ mười và là cuốn cuối cùng của ngày hôm nay.
Xem tiếp Chương 16 - Quay về Mục lục

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 14

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 14
1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregon, USA


Devageet, tôi cũng biết rằng sáng nay bạn đã nổi khùng. Tình cờ nổi khùng là một bài thực hành tốt, nhưng tôi không ủng hộ đồng bóng. Đó là một trạng thái chung. Hãy nổi khùng bên trong! Nếu bạn sẽ nổi khùng suốt, tại sao lại nổi khùng bên ngoài? Tại sao không nổi khùng bên trong? Nếu bạn nổi khùng bên trong thì bạn trở thành Osho nổi khùng, và đó là một cái gì đó giá trị. Bạn đang trên con đường trở thành Osho nổi khùng, nhưng bạn di chuyển rất thận trọng; tôi nên nói một cách khoa học, hợp lý.
Tôi không cho phép bạn ghi chép, tôi can thiệp. Thay vì nói lời xin lỗi, tôi hét vào bạn, ngay cả khi bạn đang không ngắt lời, tôi vẫn nói, “Đừng ngắt lời, Devageet!” Tôi biết điều đó có thể làm mất kiểm soát bất kỳ ai. Nhưng bạn biết tôi là người điên, và khi bạn đang đối xử với người điên, bạn phải thực sự rộng lượng – không chỉ lịch sự mà còn thực sự yêu thương.
Khi bạn đang không can thiệp và tôi nói, “Đừng ngắt lời!” Chắc tôi phải ngụ ý một cái gì đó. Chắc phải có ý tưởng nào đó trong đầu bạn. Có lẽ bạn cũng không nhận ra ý tưởng ngắt lời của bạn. Ngắt lời trao một cái gì đó quá thú vị. Và tất nhiên ở đây bạn là ông chủ. Ít nhất là trong buồng lái này, bạn là Nô-ê. Tôi chỉ là hành khách không vé. Nhưng tôi có thể nhìn thấy nhiều điều trong vô thức bạn, và khi tôi nói, “Đừng ngắt lời,” tất nhiên điều đó nhìn thái quá. Không có ai nghe bạn ngắt lời tôi, ngay cả bạn – nhưng tôi đã nghe thấy điều đó. Tôi đã nghe thấy tiếng thì thầm trong vô thức.
Hôm nay những ý tưởng tuyệt vời đang đến với tôi; ngược lại tôi chỉ là người đàn ông nghèo nàn, tôi không có những ý tưởng tầm cỡ. Xin đừng nổi khùng bên ngoài. Tóm lại, hãy luôn nổi khùng bên trong.
Tái bút của tái bút vẫn tiếp tục; đây chỉ là một ghi chú trong dấu ngoặc đơn.
Cuốn sách đầu tiên của hôm nay là THE ART OF LIVING (SỐNG ĐẸP - Nguyễn Hiến Lê dịch) của Lâm Ngữ Đường. Đó là tên Trung Quốc. Tôi nhớ lại một trong những cuốn sách của tôi, THE ART OF DYING (NGHỆ THUẬT HẤP HỐI). Lâm Ngữ Đường không biết gì về sống bởi vì ông ấy không biết gì về chết. Mặc dù ông ấy là người Trung Quốc, ông là một người Trung Quốc đồi bại, một người Cơ đốc. Đó chính là ý nghĩa của đồi bại. Sự đồi bại biến bạn thành người Cơ đốc. Sự đồi bại làm đồi bại, và bạn là một người Cơ đốc.
Trong cuốn sách NGHỆ THUẬT SỐNG, Lâm Ngữ Đường viết rất hay về nhiều điều – ngoại trừ cái chết. Điều đó có nghĩa cuộc sống không được nói đến. Cuộc sống có thể sinh ra chỉ nếu bạn cho phép cái chết, mà không phải không cho phép. Chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền. Bạn không thể có mặt này và từ chối mặt kia. Nhưng ông ấy viết rất hay, rất nghệ thuật – chắc chắn ông ấy là một trong những nhà văn tầm cỡ nhất của thời hiện đại – nhưng dù ông ấy viết gì thì cũng là tưởng tượng, thuần túy tưởng tưởng… chỉ là mơ về những điều đẹp đẽ. Đôi khi những giấc mơ cũng có thể đẹp. Mọi giấc mơ đều không phải là ác mộng.
NGHỆ THUẬT SỐNG không có gì liên quan đến cuộc sống và không có gì liên quan đến nghệ thuật, nhưng vẫn là một cuốn sách tầm cỡ. Nó tầm cỡ theo chiều hướng bạn có thể bị thu hút bởi nó. Bạn có thể bị lạc trong nó, giống như con người bị lạc trong rừng rậm: những ngôi sao trên bầu trời, xung quanh toàn cây, và không đường mòn, không lối ra, không có nơi nào để đi. Nó không dẫn bạn tới đâu. Dẫu vậy, bạn vẫn nhận ra nó là một trong những cuốn sách tầm cỡ. Tại sao? – bởi vì chỉ đọc nó thôi là bạn quên hết quá khứ, tương lai và trở thành một phần của hiện tại.
Tôi không chắc liệu Lâm Ngữ Đường có biết gì về thiền không. Thật không may ông ấy lại là Cơ đốc; vì vậy mà không bao giờ ông ấy đến tu viện Đạo, hoặc ngôi đền Phật giáo. Than ôi, ông ấy không thể biết mình đang lỡ điều gì. Thay vì ông ấy đọc KINH THÁNH, một trong những cuốn sách hạng ba hay nhất trên thế giới – ngoại trừ hai phần ngắn trong nó: BÀI CA CỦA SOLOMON trong KINH CỰU ƯỚC và BÀI THUYẾT PHÁP TRÊN NÚI trong KINH TÂN ƯỚC. Nếu chúng được lấy khỏi thì KINH THÁNH chỉ là rác rưởi. Than ôi, ông ấy không thể biết điều gì về Phật, Trang Tử, một cái gì đó của Nagarjuna, Kabir, al-Hillaj Mansoor… một cái gì đó của những người điên đó; chỉ có thế thì cuốn sách của ông ấy là đích thực. Nó nghệ thuật, nhưng không đích thực. Nó không thành thực.
Thứ hai – cuốn sách khác của Lâm Ngữ Đường, THE WISDOM OF CHINA (SỰ THÔNG THÁI TRUNG HOA). Ông ấy có nghệ thuật viết cho nên ông có thể viết bất kỳ điều gì, thậm chí là SỰ THÔNG THÁI TRUNG HOA, mặc dù ông ấy không biết gì về Lão Tử, là người chứa toàn bộ sự thông thái không chỉ của Trung Quốc mà của cả thế giới. Tất nhiên Lâm Ngữ Đường có lấy một số đoạn của Lão Tử, nhưng những câu đó lại trùng hợp với sự giáo dục Cơ đốc của ông. Nói cách khác, những đoạn đó không bao giờ là của Lão Tử cả. Ông ấy trích dẫn Trang Tử, nhưng một cách tự nhiên những lựa chọn của ông lại rất lý trí, và Trang Tử không phải là con người lý trí; ông ấy là người đàn ông ngớ ngẩn nhất từng sống trên đời.
Trang Tử là một trong những tình yêu của tôi, và khi bạn nói về người nào đó bạn yêu, bạn buộc phải sử dụng những cực đỉnh, những sự cường điệu, nhưng với tôi chúng nghe không giống như vậy. Tôi có thể trao toàn bộ vương quốc của thế gian cho Trang Tử vì bất kỳ câu chuyện ngụ ngôn nào mà ông đã viết – và ông đã viết hàng trăm. Mỗi câu chuyện ngụ ngôn đó như là một BÀI THUYẾT PHÁP TRÊN NÚI, một BÀI CA CỦA SOLOMON, một BHAGAVADGITA. Mỗi một câu chuyện ngụ ngôn biểu đạt quá nhiều, quá phong phú đến mức không thể đo lường được.
Lâm Ngữ Đường trích dẫn Trang Tử, nhưng lại trích dẫn ông ấy như là một người Cơ đốc, chứ không phải là người biết. Nhưng chắc chắn ông ấy là một người viết giỏi, và cuốn SỰ THÔNG THÁI TRUNG HOA nên được đặt cùng với một số ít cuốn đại diện cho toàn bộ quốc gia, như cuốn LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY của Bertran Russell, hoặc hơn nữa là cuốn TÂM TRÍ ẤN ĐỘ của Radhakrishman. Nó là cuốn sách lịch sử chứ không phải huyền môn, nhưng được viết hay, viết đúng về ngữ pháp và mọi thứ.
Ông ấy chỉ là một người Cơ đốc nhưng lại được giáo dục trong nhà tu kín. Bây giờ, liệu bạn có thể nghĩ có gì không may hơn khi đứa trẻ bị lừa phỉnh trong nhà tu kín? Cho nên theo người  Cơ đốc thì Lâm Ngữ Đường đúng theo mọi nhẽ, và theo người điên đang nói về ông thì ông sai theo mọi nhẽ. Nhưng tôi vẫn thích ông ấy. Ông ấy là người tài năng. Tôi không thể nói ông ấy là thiên tài, tha thứ cho tôi, nhưng ông ấy tài năng, rất tài năng. Đừng yêu cầu tôi hơn thế. Ông ấy không phải là thiên tài – và tôi không thể lịch sự, tôi chỉ có thể là thật. Tôi chỉ có thể tuyệt đối thật.
Thứ ba, một cuốn sách tôi muốn tránh nhưng dường như tôi không thể. Nó liên tục thúc mũi vào. Tất nhiên đó là cuốn sách Do Thái; nếu không làm sao bạn có cái mũi dài như vậy? THE TALMUD.
Tại sao tôi lại muốn tránh nó? Nếu tôi nói bất kỳ điều gì chống lại người Do Thái – như tôi đã luôn thực hiện và sẽ liên tục thực hiện… Nhưng trong thời điểm tôi không muốn nói bất kỳ điều gì chống lại người Do Thái; chỉ trong thời điểm, dường như người ta đang nghỉ lễ. Chính vì vậy mà tôi muốn tránh cuốn sách này.
Trong nó chỉ có một câu đẹp, chỉ vậy thôi, cho nên tôi có thể trích dẫn nó. Nó nói: Thượng đế khủng khiếp. Ngài không phải là bác của bạn, ngài không tử tế. Thượng đế không tử tế và không phải là bác của bạn – tôi yêu thích câu này. Điều này thực sự tuyệt vời. Ngược lại toàn bộ cuốn sách chỉ là câu nói sai ngữ pháp. Nó tuyệt đối thô sơ, chỉ để vứt đi. Nhưng hãy giữ lại câu này khi bạn vứt nó đi. Hãy viết nó trong phòng bạn: Thượng đế không phải là bác của bạn, ngài không tử tế – nên nhớ! Điều đó sẽ mang bạn trở lại với những giác quan của bạn khi bạn bắt đầu thực hiện những điều ngu ngốc với vợ bạn hoặc chồng bạn, những đứa con của bạn, những người giúp việc của bạn… hoặc thậm chí với bạn.
Thứ tư: Tôi sinh ra trong một gia đình thuộc về một môn phái rất nhỏ thuộc đạo Jain. Nó theo một người điên, là người ít điên khùng hơn tôi. Tôi không thể nói điên khùng hơn tôi!
Tôi sẽ nói về hai cuốn sách của ông, chúng không được dịch sang tiếng Anh, thậm chí là tiếng Hindi, bởi vì chúng là không thể dịch. Tôi không nghĩ ông ấy sẽ có bất kỳ độc giả quốc tế nào – không thể. Ông ấy không tin vào ngôn ngữ, không tin vào ngữ pháp, không tin gì. Ông ấy nói chính xác giống như người điên. Cuốn thứ tư là của ông, SHUNYA SVABHAVA – Bản chất của Trống rỗng.
Nó chỉ có vài trang, nhưng vô cùng ý nghĩa. Mỗi một câu đều chứa những câu kinh, nhưng rất khó hiểu. Lẽ tự nhiên bạn sẽ hỏi làm sao tôi có thể hiểu ông ấy. Đầu tiên, giống như Martin Buber sinh ra trong gia đình Hassid, tôi ra đời trong truyền thống của người điên này. Tên của ông là Taran Taran. Đó không phải là tên thực của ông, nhưng không ai biết tên thực của ông là gì. Taran Taran đơn giản có nghĩa là vị Cứu tinh. Điều đó đã trở thành tên ông.
Tôi đã thở ông từ khi tôi còn rất nhỏ, đã nghe những bài ca của ông, đã tự hỏi ông ngụ ý gì. Nhưng đứa trẻ không bao giờ quan tâm đến ý nghĩa. Bài ca thật đẹp, nhịp điệu cũng đẹp, và thế là đủ. Người ta cần hiểu những người như vậy chỉ nếu người ta phát triển; ngược lại, nếu ngay từ thời trẻ con của họ mà họ đã được vây quanh bởi môi trường, họ sẽ không cần hiểu và sâu bên trong ruột gan họ sẽ hiểu.
Tôi hiểu Taran Taran – không bởi trí tuệ mà bởi tồn tại. Hơn nữa tôi cũng biết ông ấy đang nói gì. Thậm chí nếu tôi không ra đời trong gia đình của những người theo ông thì tôi cũng sẽ hiểu ông. Tôi đã hiểu rất nhiều truyền thống khác nhau – và không phải tôi đã ra đời từ những truyền thống đó. Tôi đã hiểu rất nhiều người điên rằng bất kỳ ai cũng có thể hóa điên chỉ bởi cố nỗ lực đểu hiểu họ! Nhưng hãy nhìn tôi xem: họ không hề ảnh hưởng đến tôi. Bằng cách nào đó họ vẫn ở dưới tôi. Tôi vẫn vượt lên trên tất cả họ.
Dẫu vậy, tôi đã hiểu Taran Taran. Có thể tôi không liên quan gì đến ông ấy, đó là điều có thể, bởi vì rất ít những người theo ông, chỉ một vài nghìn, và chỉ tìm thấy họ ở miền trung Ấn Độ. Và họ cũng rất sợ bởi vì họ quá thiểu số đến mức họ không gọi họ là những người theo Taran Taran, họ tự gọi là những Jian tử. Họ tin một cách bí mật, không phải như là phần còn lại những người Jain tin vào Mahavira, mà là tin vào Taran Taran, người sáng lập ra giáo phái của họ.
Bản thân Jain giáo là một tôn giáo rất nhỏ; chỉ có ba triệu người tin nó. Có hai giáo phái chính: Digambaras và Svetambaras. Giáo phái Digambaras tin rằng Mahavira đã sống trần trụi, và đã trần trụi – từ digambara có nghĩa là ‘sky clad-trang phục bầu trời’; theo lối biểu tượng thì nó có nghĩa là ‘người trần trụi’. Đây là giáo phái cổ nhất.
Từ svetambara có nghĩa là ‘white clad-trang phục trắng’, và những người theo giáo phái này tin rằng mặc dù Mahavira trần trụi thì ông ấy cũng được che phủ bởi các vị thần trong trang phục trắng vô hình. Đây là sự thỏa hiệp chỉ để thỏa mãn người Hindu.
Những người theo Taran Taran thuộc về giáo phái Digambara, và họ là những người cách mạng nhất của Jain giáo. Thậm chí họ không lễ bái tượng Mahavira; những ngôi đền của họ trống rỗng, biểu hiện sự trống rỗng nội tại. Nếu tôi không tình cờ sinh ra trong một gia đình tin vào ông thì gần như không thể biết được Taran Taran. Nhưng tôi cám ơn Thượng đế, sinh ra trong gia đình như vậy cũng xứng đáng nhận rắc rối. Mọi rắc rối có thể được tha thứ chỉ vì một điều này, rằng họ đã quen tôi như một nhà huyền môn dữ dội.
Cuốn sách SHUNYA SVABHAVA của ông chỉ nói đi nói lại một điều, giống như người điên. Bạn biết tôi, bạn có thể hiểu tôi. Tôi đã nói đi nói lại cùng một điều trong suốt hai mươi lăm năm. Tôi đã nói đi nói lại: hãy thức tỉnh! Đó là điều mà ông ấy làm trong SHUNYA SVABHAVA.
Năm: Cuốn sách thứ hai của Taran Taran, SIDDHI SVABHAVA – Bản chất của sự Thực chứng Tối thượng, một tiêu đề đẹp. Ông ấy nói đi nói lại cùng một vấn đề: hãy là trống rỗng! Nhưng người đồng nghiệp tội nghiệp có thể làm gì? Không ai có thể nói bất kỳ điều gì khác, “Hãy thức tỉnh, hãy nhận biết…”
Từ tiếng Anh beware-đề phòng, là sự kết hợp bởi hai từ: be aware-hãy nhận biết – cho nên đừng sợ từ đề phòng, chỉ nhận biết, và thời điểm bạn nhận biết bạn đã về nhà.
Taran Tran có nhiều sách nhưng hai cuốn đó chứa toàn bộ thông điệp của ông. Cuốn thứ nhất chỉ ra bạn là ai – trống rỗng, tinh khiết; cuốn thứ hai, cách bạn đạt tới đó: bằng việc trở nên nhận biết. Nhưng chúng là những cuốn sách rất mỏng, chỉ vài trang.
Thứ sáu… tôi luôn muốn nói về cuốn sách này nhưng sợ rằng tôi sẽ lỡ, bởi vì không còn thời gian. Tôi đã không có kế hoạch, giống như tôi luôn không lên kế hoạch. Tôi đã nghĩ chỉ nói năm mươi cuốn, nhưng rồi tái bút và đã tiếp tục và tiếp tục. Năm mươi tên sách đã hoàn thiện, nhưng vẫn còn có nhiều cuốn rất đẹp đến mức tôi phải tiếp tục và bắt đầu tái bút của tái bút. Chính vì vậy mà bây giờ tôi có thể nói về cuốn sách này. Đó là cuốn NOTES FROM THE UNDERGROUND (NHỮNG GHI CHÉP DƯỚI TẦNG HẦM) của Dostoevsky.
Đó là một cuốn sách rất kỳ lạ, kỳ lạ như con người đó. Chỉ là ghi chép – giống như ghi chép của Devageet, từng đoạn, về bề ngoài không có gì liên quan đến nhau, nhưng thực ra lại liên hệ với mạch ngầm sống động. Nó phải được thiền. Tôi không thể nói bất kỳ điều gì hơn điều này. Đó là một trong những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại đã bị lãng quên. Có vẻ như không có ai chú ý đến nó, vì lý do đơn giản là nó không phải là tiểu thuyết, chỉ là những ghi chép, và có vẻ như chúng không liên quan với những người không thiền định. Nhưng với các môn đệ của tôi thì nó có thể vô cùng ý nghĩa; họ có thể tìm thấy kho báu ẩn giấu bên trong nó.
Tiếp tục thì thầm… Tôi đang không nói bất kỳ điều gì. Thực ra tôi không nên nói thậm chí điều đã nói. Đó cũng là một dạng ngắt lời. Tôi nên cảnh giác hơn. Nhưng, trở nên cảnh giác hơn tôi đang cảnh giác là điều rất khó. Sự cảnh giác nhiều hơn không bao giờ tồn tại cả, cho nên tôi phải làm gì? Nhiều nhất thì tôi có thể lờ nó đi. Tôi đã nghe thấy tiếng khúc khích của bạn… nhưng xin đừng đê mê bên ngoài mà hãy đê mê bên trong.
Thứ bảy, một trong những cuốn sách đến với tôi không từ nơi nào. Tôi sẽ không bao giờ nói về nó, nhưng nó ở đó. Đừng sợ, và sau đó đừng có đê mê bên ngoài. Đây là cuốn sách được viết bởi Ludwig Wittgenstein – không thực sự được viết như là cuốn sách, mà lại như là những ghi chép. Nó được xuất bản sau khi tác giả qua đời với tựa đề PHILOSOPHICAL INVESTIGATIONS (NHỮNG ĐIỀU TRA TRIẾT HỌC). Đó thực sự là một nghiên cứu sâu sắc về tất cả những vấn đề sâu sắc của người đàn ông. Tất nhiên, kể cả người đàn bà; nếu không người đàn ông sẽ tìm ra những vấn đề của mình từ đâu? Rắc rối thực sự của anh ta là người đàn bà. Socrates được cho là đã nói: nếu bạn kết hôn với một người phụ nữ tốt và đẹp – là điều hiếm – bạn sẽ may mắn.
Cuốn sách NHỮNG ĐIỀU TRA TRIẾT HỌC này được viết bởi Ludwig Wittgenstein – tôi yêu nó, nó rõ ràng, trong sáng, hợp lý và không có lỗi nào. Tôi yêu nó từ đầu đến cuối, và tôi muốn những người đang trên con đường hãy đọc nó… không như cách mà mọi người trong những nhóm trị liệu phát triển và “trải qua nó” – không đau đớn. Đó là điều mà nhiều sannyasin nghĩ, rằng trải qua đau khổ là cần thiết; không phải vậy, đó là sự lựa chọn của bạn. Bạn có thể trải qua hạnh phúc, niềm vui… điều đó tùy thuộc vào bạn.
Cho nên ý tôi không phải là “trải qua nó” trong cùng hoàn cảnh như cái gọi là các nhà trị liệu nhân văn nói đến. Khi tôi nói “trải qua nó”, ý tôi nói nhảy múa thông qua nó, yêu thông qua nó. Tôi có thể đúng theo nghĩa đen, nhưng về mặt ngữ pháp tôi có thể sai. Và tất nhiên tôi sai, bởi vì tôi có thể nghe thấy tiếng khúc khích của bạn. Xin lỗi, Devageet, bởi vì tôi vẫn còn nghe… Nhưng với tôi thì đây là sự ngắt lời – và tôi không muốn bất kỳ ai nổi cáu, đặc biệt là những người rất gần gũi với tôi, và những người không biết rằng hôm nay tôi còn đây, này mai có thể không.
Devageet, vào một ngày chiếc ghế này sẽ trống và bạn sẽ khóc và kêu la rằng bạn đã nổi cáu. Và tôi có thể dừng ở bất kỳ thời điểm nào; thế thì bạn sẽ hối tiếc về điều đó. Bạn đã biết nó, nhưng bạn đã quên. Tôi đã liên tục nói trong suốt bảy năm, nhưng vào một ngày – bạn là nhân chứng về điều đó – tôi có thể dừng đột ngột. Tôi có thể dừng tại bất kỳ thời điểm nào, có lẽ ngày mai hoặc sau ngày mai. Cho nên đừng bao giờ bị bối rối, và dù tôi có làm gì, ngay cả nếu tôi có khiêu khích bạn và phiền nhiễu bạn, thì đó cũng là vì lợi ích của bạn, bởi vì tôi không đạt được gì từ đó. Tôi không có gì để đạt được từ toàn bộ thế giới. Tôi đã có điều mà người ta khao khát trong nhiều kiếp, hàng nghìn kiếp.
Thứ tám: Thứ tám là cuốn sách… tôi có thể nghe thấy tiếng khóc của Devageet, và tình cờ điều đó là tốt. Và khóc với Bậc Thầy của bạn… Mắt tôi ngấn lệ, và bạn đang khóc. Có một dạng giao cảm đang diễn ra. Vì vậy, với cuốn sách thứ tám tôi đã chọn cuốn PSYCHOSYNTHESIS (SỰ TỔNG HỢP TÂM LÝ) của Assagioli.
Sigmund Freud đã thực hiện một việc vĩ đại là tạo ra phân tâm học, nhưng đó chỉ là một nửa. Nửa kia là cuốn SỰ TỔNG HỢP TÂM LÝ được viết bởi Assagioli – nhưng đó cũng chỉ là một nửa, nửa khác. Công việc của tôi là sự toàn bộ: luận đề tâm lý.
Phân tâm học và tổng hợp tâm lý, cả hai khoa học đó đều đáng để nghiên cứu. SỰ TỔNG HỢP TÂM LÝ rất hiếm được đọc bởi vì Assagioli không phải là tòa tháp cao như Freud; ông ấy đã không có khả năng vươn tới những đỉnh cao đó. Nhưng tất cả các sannyasin nên đọc ông ấy. Không phải là ông ấy đúng còn Freud sai; nếu tách riêng thì cả hai đều sai. Họ đúng chỉ khi họ được đặt cùng nhau. Và đó là toàn bộ công việc của tôi: đặt những phân đoạn cùng nhau giống như chơi trò ghép hình.
Thứ chín… Tôi đã luôn đánh giá cao Kahlil Gibran; tôi muốn đánh giá cao ông một lần nữa trước khi tôi lên án ông. Đừng lo lắng, tôi đang không nói từ lên án một cách nhẹ nhàng, tôi đang thực sự nói điều đó. Thứ chín là cuốn sách PROSE POETS (NHỮNG THI SĨ VĂN XUÔI) của Kahlil Gibran – tuyệt đẹp. Không có ai trong thế giới hiện đại, trừ Rabindranath Tagore, lại có thể viết thơ theo lối văn xuôi như vậy.
Thật kỳ lạ là cả hai đều là người ngoài đối với tiếng Anh. Có lẽ chính vì vậy mà họ có thể viết thứ ngôn ngữ thi vị như vậy. Họ đến từ những vùng có ngôn ngữ khác nhau: Kahlil Gibran đến từ Arab, là vùng đất mà ngôn ngữ rất thi vị, thuần khiết thi ca; và Rabindnanath đến từ Bengal, nơi đó thậm chí ngôn ngữ còn thi vị hơn Arab. Thực tế, nếu bạn nhìn thấy hai người Bengal đang cãi nhau bạn sẽ ngạc nhiên, bởi vì bạn sẽ nghĩ rằng họ đang trao nhau những lời nói yêu thương. Bạn sẽ không có khả năng hình dung rằng họ đang cãi nhau. Ngay cả khi cãi nhau, ngôn ngữ Bengal cũng giàu chất thơ.
Tôi biết điều đó từ chính trải nghiệm của mình. Tôi đã ở Bengal và nhìn thấy mọi người đang cãi nhau – rất giàu chất thơ! Tôi đã kinh ngạc. Khi tôi đến Maharashtra, tôi  nhìn thấy mọi người đang nói chuyện, tán gẫu, và tôi đã lo lắng: họ đang cãi nhau chăng? Có nên thông báo cho cảnh sát không? Marathi là ngôn ngữ thế đó, bạn không thể nói điều gì ngọt ngào. Nó chói tai, gay gắt. Đó là thứ ngôn ngữ chiến tranh.
Thật kỳ lạ là người Anh đã đánh giá cao cả Kahlil Gibran và Rabindranath, nhưng họ đã không học được bất kỳ điều gì từ hai người đó. Họ đã không học được bí quyết thành công của hai người. Bí quyết thành công của họ là gì? ‘Chất thi ca’ của họ.

Thứ mười: Đây là cuốn sách được viết bởi Kahlil Gibran mà tôi không bao giờ muốn phê phán trước công luận, bởi vì tôi yêu con người đó. Nhưng tôi phải thực hiện điều đó bởi vì nó đang được ghi chép mà tôi có thể lên án con người đó mặc dù tôi cũng yêu ông, nếu những lời nói của ông không đại diện cho sự thật.
Cuốn sách là THOUGHTS AND MEDITATION (TƯ TƯỞNG VÀ THIỀN). Bây giờ, tôi không thể đồng ý với điều đó, và vì điều đó mà tôi biết rằng Kahlil Gibran không bao giờ biết thiền là gì. Trong cuốn sách này, ‘các thiền’ không là gì mà là ‘những suy tư’; chỉ có thế thì chúng mới có thể đi cùng với những ý nghĩ. Ashu, bạn không phải đi cùng với những ý nghĩ, bạn phải đi cùng với thiền – với tôi, không phải với Kahlil Gibran. Cho nên hãy lên cao hơn. Nếu bạn không đạt được điều đó thì tôi sẽ dừng nói như thế này rất nhanh. Tôi muốn khẳng định sự vượt lên của tôi bằng mọi cách. Không có vị phật nào đã thực hiện điều đó trước đó. Tôi muốn trở thành một người tiên phong.
Tôi chống lại cuốn sách thứ mười này bởi vì tôi chống lại tư tưởng. Tôi chống lại nó bởi vì Kahlil Gibran sử dụng từ thiền trong bối cảnh phương Tây. Ở phương Tây, thiền đơn giản là tập trung nghĩ về một cái gì đó. Đó không phải là thiền. Ở phương Đông, thiền có nghĩa là không bao giờ nghĩ cả. Nó không có gì liên quan đến ‘về cái này hay cái kia’, nó là phi-đối tượng. Không có đối tượng trong nó, chỉ có tính chủ quan thuần khiết. Soren Kierkegaard đã nói: Cái cốt lõi nhất của con người là tính chủ quan thuần khiết. Đó chính là thiền.
Xem tiếp Chương 15 - Quay về Mục lục

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 13

Osho – Những cuốn sách tôi yêu - Chương 13
1984, buổi tối tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA


Cuốn sách đầu tiên hôm nay là cuốn LUST FOR LIFE (KHAO KHÁT SỐNG) của Ivring Stone. Đó là cuốn tiểu thuyết cơ bản dựa trên cuộc đời của Vincent Van Gogh. Stone đã sáng tạo ra một tác phẩm rất tuyệt diệu đến độ tôi không còn nhớ có ai khác đã thực hiện điều tương tự. Không ai đã từng viết về ai đó một cách rất thân mật như vậy, dường như ông ấy đang viết từ chính thực tại mình.
KHAO KHÁT SỐNG không chỉ là một cuốn tiểu thuyết, nó là một cuốn sách tâm linh. Theo cảm giác của tôi thì nó là tâm linh, bởi vì với tôi thì mọi mọi khía cạnh của cuộc sống phải hợp nhất thành một sự tổng hợp duy nhất; chỉ có thế thì con người mới là tâm linh. Cuốn sách được viết quá hay đến mức có khả năng rằng Irving Stone sẽ có khả năng vượt lên nó một cách tách biệt.
Sau cuốn đó ông ấy đã viết nhiều cuốn khác, và cuốn thứ hai của tôi hôm nay cũng của Ivring Stone. Tôi tính nó là thứ hai bởi vì nó là thứ yếu, không có phẩm chất như cuốn KHAO KHÁT SỐNG. Đó là cuốn THE AGONY AND ECSTASY (NỖI THỐNG KHỔ VÀ NIỀM VUI SƯỚNG), nó cũng dựa trên cuộc đời của một người khác. Có lẽ Stone nghĩ rằng ông sẽ có thể sáng tạo ra một KHAO KHÁT SỐNG khác, nhưng ông đã thất bại. Mặc dù ông ấy đã thất bại nhưng cuốn sách vẫn đứng thứ hai – không phải so với bất kỳ tác giả nào khác mà với chính ông. Có hàng trăm cuốn tiểu thuyết viết về cuộc đời của những nghệ sĩ, nhà thơ, họa sĩ, nhưng không cuốn nào trong chúng đạt tới đỉnh cao của cuốn thứ hai, vậy thì nói gì về cuốn thứ nhất. Cả hai đều đẹp, nhưng cuốn thứ nhất có một vẻ đẹp siêu việt.
Cuốn thứ hai có một chút kém hơn, nhưng đó không phải là lỗi của Ivring Stone. Khi bạn biết rằng bạn đã viết một cuốn sách như KHAO KHÁT SỐNG, thì bản năng thông thường của con người là bắt chước mình, để tạo ra một cái gì đó tương tự, nhưng tại thời điểm bạn bắt chước, nó không thể là tương tự. Khi ông ấy viết KHAO KHÁT, ông đã không bắt chước, ông ấy là ốc đảo hoang sơ. Khi ông ấy viết NỖI THỐNG KHỔ VÀ NIỀM VUI SƯỚNG, chắc ông ấy đã bắt chước mình, và đó là sự bắt chước tồi tệ nhất. Mọi người thực hiện điều đó trong phòng tắm của mình, nhìn vào gương… Đó là điều mà người ta cảm nhận về cuốn sách thứ hai của ông. Nhưng, mặc dù vậy tôi vẫn nói đó là sự sáng tạo duy nhất bởi chiếc gương, nó phản ánh một cái gì đó thực; do vậy mà tôi tính đến nó.
Tôi đã hỏi Gudia, Ivring Stone đã viết về cuộc đời của ai trong cuốn NỖI THỐNG KHỔ VÀ NIỀM VUI SƯỚNG, bởi vì tôi đã hoàn toàn quên. Điều đó cũng thật hiếm; tôi không dễ quên. Tôi dễ tha thứ nhưng tôi không dễ quên. Ông ấy đã viết về cuộc đời của ai, bạn có biết không Devaraj? Có phải là Gaugin?
“Đó là Michelangelo, thưa Osho.”
Michelangelo ư? Một cuộc đời vĩ đại. Thế thì Stone đã bỏ lỡ rất nhiều. Nếu đó là cuộc đời của Gaugin thì sẽ không sao, nhưng nếu đó là Michelangelo thì tôi phải xin lỗi; thậm chí tôi không thể tha thứ cho ông ấy. Nhưng ông ấy viết rất đẹp. Văn xuôi của ông giống như thơ, mặc dù cuốn thứ hai không cùng phẩm chất như cuốn KHAO KHÁT SỐNG. Điều đó là không thể vì một lý do đơn giản là vì chưa từng có một người đàn ông nào như Vincent Van Gogh. Người đồng nghiệp Hà Lan đó là không thể bắt chước! Ông ấy đứng một mình. Trên bầu trời đầy sao, ông ấy rọi sáng một mình, riêng biệt, duy nhất theo cách của ông. Viết một cuốn sách xứng tầm về ông ấy thì dễ, và với Michelangelo chắc cũng vậy, nhưng Stone lại cố bắt chước mình; do vậy mà ông ấy đã bị lỡ. Đừng bao giờ là người bắt chước. Đừng theo… ngay cả chính bạn.
Chỉ tồn tại
thời điểm tới thời điểm
không biết
bạn là ai…
và bạn ở đâu.
Đó là điều ngụ ý
trở thành người của tôi.
Chetana tội nghiệp, tôi đã nói với cô ấy rằng trang phục của tôi phải là màu tuyết trắng. Cô ấy là người giặt là cho tôi. Cô ấy làm bất kỳ việc gì cô có thể.
Hôm nay tôi vô cùng hạnh phúc khi lại nhận ra mình đang ở Himalaya. Tôi muốn chết ở Himalaya giống như Lão Tử đã từng. Thật tuyệt vời khi được sống ở Himalaya, và còn tuyệt vời hơn khi được chết ở Himalaya. Tuyết trắng, dù nó rơi ở đâu, thì cũng đại diện cho sự tinh khiết của Himalaya, sự trinh trắng… Ngày mai không bao giờ đến, cho nên không cần lo lắng. Với tôi thì luôn là hôm nay, và chính thời điểm này chúng ta đang ở trong thế giới Himalaya đó.
Chắc Michelangelo thích đá cẩm thạch trắng; ông ấy đã tạc một bức tượng Jesus từ nó. Không có ai đã tạc những nhân vật đẹp như vậy, cho nên cũng không có gì khó để Stone viết câu chuyện đẹp về Michelangelo. Nhưng ông ấy đã lỡ điều quan trọng chỉ vì ông ấy đã bắt chước mình. Than ôi, nếu ông ấy có thể quên cuốn sách đầu tiên của mình, hẳn ông ấy sẽ sáng tạo ra cuốn KHAO KHÁT SỐNG khác.
Thứ ba, cuốn PHỤC SINH của Leo Tolstoy. Cả cuộc đời mình Loe Tolstoy đã quan tâm đến Jesus; do vậy mà tựa đề của cuốn sách mới là PHỤC SINH. Và Loe Tolstoy đã thực sự sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật lớn. Với tôi nó là một cuốn kinh thánh. Tôi vẫn có thể nhìn thấy khi còn trẻ tôi luôn mang cuốn PHỤC SINH của Tolstoy bên mình. Ngay cả cha tôi cũng trở nên lo lắng. “Đọc sách thì không sao,” vào một ngày ông nói với tôi, “nhưng tại sao con cứ khư khư ôm cuốn sách này cả ngày? Con đã đọc nói rồi mà.”
Tôi nói, “Đúng, con đã đọc rồi, không chỉ một lần mà là nhiều lần. Nhưng con sẽ mang nó bên mình.’
Cả làng tôi đã biết tôi liên tục mang cuốn sách nào đó được gọi là RESURRECTION (PHỤC SINH). Tất cả họ đều nghĩ tôi bị điên – và một người điên thì có thể làm bất kỳ điều gì. Nhưng tại sao tôi lại mang cuốn PHỤC SINH cả ngày? – và không chỉ ban ngày, mà cả đêm nữa. Cuốn sách nằm trên giường cùng với tôi. Tôi yêu nó… cách Leo Tolstoy phản ánh toàn bộ thông điệp của Jesus. Ông ấy thành công hơn bất kỳ tông đồ nào ngoại trừ Thomas – và điều mà tôi sẽ nói đến chỉ chạy theo PHỤC SINH.
Đặc biệt là bốn vị tông đồ được kể trong kinh Thánh lại lỡ toàn bộ tinh thần của Jesus. Cuốn PHỤC SINH còn tốt hơn nhiều. Tolstoy thực sự yêu Jesus và tình yêu là ma thuật, bởi vì khi bạn yêu ai đó thì thời gian biến mất. Tolstoy quá yêu Jesus đến mức họ trở thành những người cùng thời. Khoảng trống quá lớn, hai nghìn năm, nhưng với Tolstoy và Jesus thì nó đã biến mất. Điều đó hiếm khi xuất hiện, rất hiếm, chính vì vậy mà tôi từng mang cuốn sách đó bên mình. Tôi không còn mang nó trong tay mình, nhưng nó vẫn còn đó, trong trái tim tôi.
Thứ tư, vị tông đồ thứ năm. Điều đó không được ghi lại trong kinh Thánh; nó chỉ được tìm ra ở Ai Cập: NOTES OF (NHỮNG GHI CHÉP VỀ JESUS), được viết bởi Thomas. Tôi đã nói về nó bởi vì tôi rất yêu nó. Thomas, trong cuốn sách của mình, NHỮNG GHI CHÉP VỀ JESUS, lại quá đơn giản đến mức ông ấy không thể sai sót. Ông ấy rất trực tiếp, ngay lập tức, đến mức ông không hiện diện mà chỉ có Jesus tồn tại.
Bạn có biết rằng Thomas là môn đệ đầu tiên tới Ấn Độ không? Cơ đốc Ấn Độ là cổ nhất, còn cổ hơn cả Vatican. Và cơ thể Thomas vẫn còn được bảo quản ở Goa – một nơi chốn lỳ lạ, nhưng đẹp, rất đẹp. Chính vì vậy mà tất cả những người ngoài cuộc, được gọi là những kẻ hippies, đã trở nên thu hút tới Goa. Không có nơi nào khác… không có bãi biển nào lại quá thuần khiết và đẹp như ở Goa.
Cơ thể Thomas vẫn còn được bảo quản, và cách nó được bảo quản là một điều kỳ diệu. Bây giờ chúng ta biết cách bảo quản cơ thể, làm lạnh nó, nhưng cơ thể Thomas không được làm lạnh; phương pháp cổ đại nào đó đã được sử dụng ở Ai Cập, ở Tây Tạng, cũng đã được sử dụng trong trường hợp này. Các nhà khoa học vẫn chưa có khả năng khám phá ra – những hóa chất đã được sử dụng… và có loại hóa chất nào đã được sử dụng hay không. Các nhà khoa học thật vĩ đại! Họ có thể lên tận mặt trăng, nhưng họ không thể làm cho cái bút mực không bị rò mực! Họ là những người thất bại về những điều bình thường.
Tôi không phải là một nhà khoa học. Hôm qua, thậm chí khi tôi nói, “Được thôi,’ điều đó cũng không được. Tôi đơn giản nói điều đó bởi vì tôi yêu bạn và tôi không muốn gây ra bất kỳ rắc rối nào. Tôi không biết bất kỳ điều gì về máy móc và hóa học, tôi chỉ biết chính mình. Khi mọi thứ quanh tôi đang diễn ra hoàn hảo thì có một sự siêu việt. Tôi biết, thông qua sự siêu việt đó mà mọi thứ sẽ diễn ra hoàn hảo. Nếu một cái gì đó sai thì tôi phải xuống trở lại.
Hãy để tôi giải thích cho bạn toàn bộ khái niệm phương Đông về xuống trở lại. Con người ra đời chỉ nếu một cái gì đó sai… nếu một cái gì đó sai với người đó. Nếu không có gì sai thì người đó không ra đời; người đó di chuyển vào suối nguồn, biến vào vũ trụ.
Ngày hôm kia, mọi thứ diễn ra đều tốt. Điều đó đã không diễn ra vào ngày hôm qua. Đầu tiên tôi đã nói “tốt thôi”; điều đó là không thực. Nhưng tôi có thể nói dối bởi vì tôi yêu – tôi không muốn làm cho bạn thất vọng. Và cuối cùng tôi cũng đã nói, “Thật tuyệt, bạn có thể kết thúc nó,” nhưng không có gì để kết thúc bởi vì thậm chí đã không có bắt đầu. Tôi phải nói với bạn điều này để nó không bị lặp lại. Xin đừng ép tôi nói dối. Tôi không thuộc về nước Anh, tôi không phải là người Anh; ngay cả vì mục đích xã giao đi nữa thì đó cũng là điều khó với tôi, thực khó nói dối. Hãy giúp tôi để tôi có thể nói sự thật. Tại thời điểm này nhiều điều dang diễn ra thực sự tuyệt – và tôi đang không nói giống như người Anh – thực sự đẹp… Bạn biết tôi, một kẻ gạ gẫm.
Thứ năm – một cuốn sách khác của Leo Tolstoy. Một trong những cuốn sách vĩ đại nhất của mọi ngôn ngữ trên thế giới, WAR AND PEACE (CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH). Không chỉ vĩ đại nhất mà còn đồ sộ nhất… hàng nghìn trang. Tôi không biết có ai đọc những cuốn sách như vậy ngoài tôi. Chúng quá lớn, quá bao la, chúng làm cho bạn sợ.
Nhưng sách của Tolstoy phải rộng lớn, đó không phải là lỗi của ông. CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH là toàn bộ lịch sử ý thức loài người – toàn bộ lịch sử; điều đó không thể được viết chỉ bởi vài trang. Đúng, thật khó để đọc hàng nghìn trang sách, nhưng nếu người nào có thể đọc thì sẽ được chuyên chở đến một thế giới khác. Người ta sẽ biết sự nếm trải một cái gì đó cổ điển. Đúng, nó là một tác phẩm cổ điển.
Thứ sáu. Có vẻ như hôm nay tôi bị bao vây bởi những người Nga. Cuốn thứ sáu là THE MOTHER (NGƯỜI MẸ) của Maxim Gorky. Tôi không thích Gorky; ông ấy là một người cộng sản, và tôi ghét những người cộng sản. Khi tôi ghét, tôi đơn giản ghét, nhưng cuốn NGƯỜI MẸ, mặc dù nó được viết bởi Maxim Gorky, tôi vẫn yêu nó. Tôi đã yêu nó suốt cuộc đời mình. Tôi có rất nhiều bản sách đó đến mức cha tôi từng nói, “Con bị điên sao? Một bản là đủ, và con không ngừng đặt mua thêm! Cha liên tục nhìn thấy những gói bưu kiện, và đó không là gì khác ngoài cuốn NGƯỜI MẸ của Maxim Gorky. Con bị điên hay sao vậy?”
Tôi đã nói với ông, “Đúng, liên quan đến cuốn NGƯỜI MẸ của Gorky thì con là kẻ điên, hoàn toàn điên.”
Khi tôi nhìn thấy mẹ ruột của tôi, tôi nhớ đến Gorky. Gorky phải được tính đến như là nghệ sĩ siêu đẳng nhất của cả thế giới. Đặc biệt trong cuốn NGƯỜI MẸ, ông ấy đạt tới đỉnh cao nhất của nghệ thuật viết. Không có ai trước đó và không có ai sau đó… ông ấy giống như đỉnh Hymalaya. Cuốn NGƯỜI MẸ là để nghiên cứu, và nghiên cứu đi nghiên cứu lại; chỉ có thế, dần dần nó thấm vào bạn. Thế rồi dần dần bạn bắt đầu cảm nhận nó. Đúng, đó là từ: cảm nhận – không nghĩ, không đọc, mà cảm nhận. Bạn bắt đầu chạm vào nó, nó bắt đầu chạm vào bạn. Nó trở nên sống động. Thế rồi nó không còn là cuốn sách nữa, mà là con người… một con người.
Thứ bảy cũng là người Nga khác, Turgenev, và cuốn sách của ông ấy là FATHERS AND SONS (CHA VÀ CON). Đây đã là một trong những tình yêu của tôi. Tôi đã yêu nhiều cuốn sách, hàng nghìn cuốn, nhưng không cuốn nào giống như cuốn CHA VÀ CON. Tôi từng ép người cha tội nghiệp của tôi đọc nó. Ông đã qua đời; nếu không tôi hẳn sẽ xin ông tha thứ cho tôi. Tại sao tôi đã ép ông đọc cuốn sách đó? Đó là cách duy nhất để ông hiểu khoảng trống giữ ông và tôi. Nhưng ông thực sự là một người đàn ông tuyệt diệu; ông đã đọc lại nó nhiều lần chỉ vì tôi đã nói. Không phải ông đã đọc nó một lần mà là nhiều lần. Và không chỉ ông đã đọc cuốn sách mà khoảng trống giữa ông và tôi đã được bắc cầu. Chúng tôi không còn là cha và con nữa. Mối quan hệ xấu xí cha và con trai, mẹ và con gái đó và vân vân, ít nhất với tôi, cha tôi đã bỏ rơi điều đó, chúng tôi đã trở thành những người bạn. Với chính cha bạn, hoặc với chính con trai bạn, việc trở thành những người bạn là điều khó; toàn bộ lợi ích là cho ông chứ không phải cho tôi.
Cuốn sách CHA VÀ CON của Turgenev nên được mọi người đọc, bởi vì mọi người đều bị vướng vào một dạng quan hệ nào đó – cha và con trai, chồng và vợ, anh trai và em gái… đúng, nó tạo ra bi kịch. Theo từ điển của tôi thì toàn bộ vấn đề ‘gia đình’ nên có nghĩa là ‘bi kịch’. Và mọi người vẫn còn đang giả vờ, “Tuyệt đẹp làm sao…” Mọi người đang giả vờ là người Anh, thuộc nước Anh.
Thứ tám, D.H. Lawrence. Tôi luôn muốn nói về sách của ông, nhưng tôi sợ phát âm của tôi có đúng hay không. Xin đừng cười nhé. Cả đời tôi đã gọi nó là THE PHONIX bởi vì đó là cách nó được đánh vần. Mới sáng nay tôi đã hỏi Gudia, “Hãy tử tế với tôi Gudia” – là điều hiếm hoi! “phát âm từ này như thế nào?”
Cô ấy nói, “Pheenix!”
Tôi nói, “Chúa ơi, Pheenix ư? Và cả đời tôi đã lãng phí để gọi nó là phonix…!” Đó là cuốn thứ tám của tôi, THE PHOENIX (CHIM PHƯỢNG HOÀNG). Được thôi, tôi sẽ thay đổi phát âm của tôi để ít nhất là làm cho nó có vẻ như là người Anh.
CHIM PHƯỢNG HOÀNG. Đây là cuốn sách kỳ diệu, là cuốn sách được viết một cách tình cờ… chỉ một lần sau nhiều thập kỷ, hoặc thậm chí nhiều thế kỷ.
Thứ chín, cuốn sách khác của D.H. Lawrence. Cuốn CHIM PHƯỢNG HOÀNG tầm cỡ, đẹp, nhưng không phải là lựa chọn cuối cùng của tôi. Lựa chọn cuối cùng của tôi là cuốn sách của ông, PSYCHOANALYSIS AND UNCONSCIOUS (PHÂN TÂM HỌC VÀ VÔ THỨC), mà nó rất hiếm được dọc. Bây giờ, ai sẽ đọc cuốn sách đó? Những người đọc tiểu thuyết sẽ không đọc nó, và những người đọc phân tâm học sẽ không đọc nó bởi vì họ không coi Lawrence là nhà phân tâm học. Nhưng tôi đọc nó. Tôi không phải là một người hâm mộ các nhà tiểu thuyết hoặc không phải là kẻ điên đối với các nhà phân tâm học. Tôi tự do với cả hai. Tôi tuyệt đối tự do. Tôi yêu cuốn sách này.
Mắt tôi đang bắt đầu ứ lệ. Xin đừng ngắt lời.
PHÂN TÂM HỌC VÀ VÔ THỨC đã và sẽ là một trong những cuốn sách tôi yêu và ấp ủ nhất. Mặc dù tôi không đọc thêm nữa, nếu tôi có đọc lại thì đó hẳn sẽ là cuốn sách đầu tiên tôi sẽ đọc. Không phải là Vedas, không phải là kinh Thánh, mà là PHÂN TÂM HỌC VÀ VÔ THỨC … và bạn biết đó, cuốn sách chống lại phân tâm học.
D.H.Lawrence thực sự là một nhà cách mạng, một người nổi dậy. Ông ấy còn cách mạng hơn Sigmund Freud. Sigmund Freud là tầng lớp trung dung. Tôi sẽ không nói nhiều hơn điều đó, cho nên đừng chờ. Bằng việc nói ‘tầng lớp trung dung’ tôi đã nói mọi thứ đều tầm thường. Đó là ý nghĩa của tầng lớp trung dung; chỉ ở trung gian. Theo nghĩa thực sự thì Sigmund Freud không phải là người nổi dậy; Lawrence là người nổi dậy.
Tốt. Đừng lo lắng về tôi và những giọt lệ của tôi. Tình cờ rơi những giọt lệ là điều tốt, và tôi đã không khóc quá lâu.
Thứ mười: Cuốn THE LIGHT OF ASIA (ÁNH SÁNG CHÂU Á) của Arnold. Tôi phải nói thêm hai cuốn nữa, và thậm chí nếu tôi có chết thì tôi sẽ hoàn thành bài nói của mình.
Thứ mười một. Sự lựa chọn thứ mười một của tôi là BIJAK. BIJAK là tuyển tập những bài ca của Kabir. BIJAK có nghĩa là ‘hạt mầm’ – và hạt mầm là tinh tế, rất tinh tế, vô hình. Bạn không thể nhìn thấy nó nếu nó không nảy mầm và trở thành cây.
Đừng ngắt lời tôi. Bạn có muốn tiếp tục? – đó là vấn đề. Đừng bao giờ hỏi tôi, hãy hỏi chính bạn. Nếu bạn không muốn tiếp tục, đơn giản là thông báo cho tôi, thế là đủ. Cưỡi lên hai con ngựa là điều thực sự rất khó, và đó là điều mà tôi đang làm. Hơn nữa một con là ngựa cái, còn con kia là ngựa giống. Bây giờ phải làm gì – hai hướng khác nhau…
Thứ mười hai. Vì tình trạng này mà tôi chọn cuốn sách của Herbert Marcuse, ONE DIMENSIONAL OF MAN (MỘT KHÍA CẠNH CON NGƯỜI). Tôi chống lại nó, nhưng ông ấy đã viết một cuốn sách đẹp. Tôi chống lại nó bởi vì tôi biết con người được thỏa mãn chỉ khi anh ta là đa khía cạnh, khi anh ta trải ra mọi khía cạnh. MỘT KHÍA CẠNH CON NGƯỜI là câu chuyện của con người hiện đại; đó là sự lựa chọn thứ mười hai của tôi.
Cuốn sách thứ mười ba là của Trung Quốc, I CHING (KINH DỊCH).
Cuốn thứ mười bốn, và là cuối cùng. Cuốn sách này là một cuốn tiểu thuyết Hindi, nó chưa được dịch sang tiếng Anh. Thật kỳ lạ là được nhắc đến bởi một người đàn ông như tôi, nhưng nó xứng đáng được nhắc đến. Tựa đề Hindi là NADI KE DWEEP, có thể nó được dịch là ỐC ĐẢO CỦA MỘT DÒNG SÔNG, và nó được viết bởi Satchidanand Vatsyayana. Cuốn tiểu thuyết này dành cho những người muốn thiền; đó là cuốn tiểu thuyết của thiền nhân. Không có cuốn tiểu thuyết nào khác, hoặc là của Tolstoy hoặc là của Chekhov, có thể so sánh với nó. Thật không may là nó lại được viết bằng tiếng Hindi.
Hãy chờ. Điều đó thật tuyệt vời đến mức tôi muốn hưởng thụ hơn là nói bất kỳ điều gì. Nói ở độ cao này là quá khó. Xin đừng ngắt lời…
Xem tiếp Chương 14 - Quay về Mục lục