Osho
– Những cuốn sách tôi yêu - Chương 7
1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA
Được thôi.
Tôi nghe thấy sổ ghi chép của bạn mở ra. Bây giờ là thời gian của tôi, và một
giờ của tôi không bao gồm sáu mươi phút. Nó có thể là bất kỳ điều gì – sáu
mươi, bảy mươi, chín mươi, một trăm… hoặc thậm chí vượt ra ngoài những con số. Nếu
đó là một giờ của tôi thì tất nhiên nó phải phù hợp với tôi, không ngược lại.
Phần tái bút
vẫn tiếp tục.
Tên đầu tiên
hôm nay là người chưa từng được nghe ở phương Tây: Maluka. Ông ấy là một trong
những nhà huyền môn quan trọng ở Ấn Độ. Tên đầy đủ của ông là Malukdas, nhưng
ông chỉ gọi mình là Maluka cứ như ông là một đứa trẻ – và ông thực sự là một đứa
trẻ, chứ không phải là ‘cứ như’.
Tôi đã nói về
ông ấy bằng tiếng Hindi, nhưng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để dịch nó sang
các ngôn ngữ khác vì lý do đơn giản là Maluka quá kỳ lạ, quá huyền bí. Bạn sẽ
ngạc nhiên rằng ở đất nước như Ấn Độ, đầy rẫy các nhà bình luận, các học giả,
các vị học giả Hindu, không ai đã bận tâm đến việc bình luận về Malukdas, bở vì
đó là việc quá khó. Ông ấy đã phải chờ tôi. Tôi là nhà bình luận đầu tiên của
ông, và ai biết, cũng có thể là cuối cùng.
Ví dụ: Ajgar
karai na chakari panchhi karai na kam das maluka kahi gaye sab ke data ram.
Bây giờ tôi sẽ
thử dịch nó. Nó sẽ không chính xác như vậy nhưng tôi không chịu trách nhiệm về
chuyện đó. Tiếng Anh nghèo nàn không thể chứa được sự phong phú như vậy. Maluka
nói: con rắn không bao giờ ra ngoài để làm việc, hoặc con chim cũng vậy. Và
Maluka nói, thực tế là không cần thiết, bởi vì tồn tại cung cấp cho tất cả. Ông
ấy là người đàn ông mà Zorba hẳn sẽ thích. Ông ấy là người có một chút điên
khùng và nhiều thiền.
Ông ấy trong
thiền sâu đến mức ông nói:
Mala japon na
kar jibhya japon na ram, sumiran mera hari karain main paya bisram.
Ông ấy nói:
tôi không tụng tên Thượng đế, hoặc tôi không sử dụng chuỗi tràng hạt để lễ bái.
Tôi không bao giờ thờ cúng – ai mà quan tâm đến những thứ ngớ ngẩn như vậy! Ông
ấy tiếp: thực tế, Thượng đế nhớ tên tôi, tôi không cần thiết nhớ tên ngài... Bạn
biết không? Một chút điên khùng và nhiều thiền. Maluka là một trong những người
mà tôi có thể nói không do dự rằng ông ấy đã vượt lên chứng ngộ. Ông ấy đã trở
thành nhân vật thứ mười của Mười Người khổng lồ Zen.
Thứ hai, cuốn
sách của những người Sikh: GURU GRANTHA SAHIB. Nó không được viết bởi bất kỳ
người nào cho nên tôi không thể nói cho bạn tác giả là ai. Nó là bộ sưu tập từ
thế hệ này tới thế hệ khác. Nó được sưu tập từ mọi nguồn, không như bất kỳ cuốn
sách nào trên thế giới. KINH CỰU ƯỚC là của người Do Thái, KINH TÂN ƯỚC là của
người Cơ đốc, BHAGAVADGITA là của người Hindu, DHAMMAPADA là của Phật giáo,
KINH JIN là của người Jian; nhưng GURU GRANTHA SAHIB là cuốn sách duy nhất trên
thế giới được lấy từ mọi nguồn có thể. Các nguồn của nó là từ Hindu, Hồi giáo,
Jain giáo, Phật giáo, Cơ đốc giáo. Rất cởi mở, không cuồng tín.
Tựa đề GURU
GRANTHA có nghĩa là ‘sách của các Bậc Thầy’, hoặc ‘sách Bậc Thầy’. Trong nó bạn
có thể tìm ra Kabir, Nanak, Farid, và một danh sách dài các nhà huyền môn thuộc
về các truyền thống, các trường phái khác nhau, tựa như hàng nghìn dòng sông
cùng đổ ra đại dương. GURU GRANTHA giống như đại dương.
Tôi sẽ chỉ dịch
một câu của Nanak. Ông ấy là người sáng lập, cho nên tất nhiên những lời nói của
ông được biên tập trong GURU GRANTHA. Ông ấy là Bậc Thầy đầu tiên của những người
Sikh; thế rồi một loạt chín Bậc Thầy khác theo sau. Chủ thuyết Sikh được sáng lập
bởi mười Bậc Thầy. Đó là tôn giáo hiếm hoi, bởi vì mọi tôn giáo khác được tạo
ra chỉ bởi một Bậc Thầy.
Nanak nói: sự
thật, sự thật tối thượng không thể được nói, cho nên xin hãy tha thứ cho tôi,
tôi sẽ không nói về nó mà chỉ ra nó. Nếu bạn có thể hiểu ngôn ngữ của âm nhạc
thì có lẽ dây đàn trong trái tim bạn được chạm. Sự rọi sáng của cây đèn vượt
lên những lời nói.
GURU GRANTHA
SAHIB… Những người Sikh gọi nó là SAHIB, bởi vì họ quá tôn trọng cuốn sách, cứ
như nó đang còn sống, dường như nó chính là linh hồn của Bậc Thầy. Nhưng sách
là sách, và thời điểm mà các Bậc Thầy ra đi thì cuốn sách chết, từ ngữ là thứ
chết. Cho nên chúng đang mang cái thây ma đẹp, giống như mọi tôn giáo khác đang
làm. Nên nhớ, dù sao thì tôn giáo đó còn sống chỉ là sự tình cờ, nó còn sống chỉ
bởi sự hiện diện của Bậc Thầy. Khi Bậc Thầy không còn sống nữa thì nó trở thành
tín điều, và tín điều là cái thứ xấu.
Quốc hội Hà
Lan đã chỉ định hội đồng điều tra ‘Những sự sùng bái tôn giáo và các tín điều’.
Rõ ràng tôi là người đầu tiên trong danh sách điều tra của họ. Tôi đã thông báo
cho người của tôi ở Hà Lan để nói với hội đồng, “Chúng tôi sẽ không hợp tác với
các ông bởi vì thực tế chúng tôi không sùng bái tôn giáo hoặc không phải là tín
điều. Nếu các ông muốn tìm kiếm những sự sùng bái tôn giáo và các tín điều thì
có rất nhiều: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, và vô số khác.”
Hội đồng đã
trở nên rất lo lắng. Họ viết thư cho những người mang trang phục da cam ở Hà
Lan, “Xin hãy hợp tác cùng chúng tôi.” Những người của tôi đã hỏi phải làm gì.
Tôi nói với họ, “Tôi đã nói với các bạn những gì phải làm rồi. Nếu không chỉ định
hội đồng để điều tra chính tinh thần của tôn giáo thì đừng hợp tác.”
Hãy nhìn vào
sự ngớ ngẩn: Quốc hội Hà Lan bị thống trị bởi đảng Dân chủ Cơ đốc, và những người
được chỉ định phục vụ hội đồng đều là thành viên của đảng Dân chủ Cơ đốc. Bây
giờ, họ là những người tín điều, họ là những người sùng bái tôn giáo. Người của
tôi không sùng bái tôn giáo. Tôi vẫn còn sống và vẫn còn chơi! Tôn giáo tồn tại
chỉ khi Bậc Thầy còn đang thở. Hơi thở của vị đó tạo nên tôn giáo.
GURU GRANTHA
được biên soạn bởi những câu nói của mười Bậc Thầy còn sống, mười người chứng
ngộ. Tôi nói rằng không cuốn sách nào có thể so sánh với nó. Nó là cuốn sách
không thể so sánh. Nanak nói, “Ek omkar satnam – chỉ một điều là đúng, tên của
cái không thể biểu đạt.” Ở phương Đông chúng tôi gọi nó là omkar, om – chỉ có
điều đó là đúng. Âm thanh của vô thanh… sự tĩnh lặng lan tỏa sau khi âm thanh rời
đi… ek omkar satnam.
Thứ ba: Cuốn
sách được viết bởi Mabel Collins, LIGHT ON THE PATH (ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG).
Bất kỳ ai muốn du hành tới những đỉnh cao thì phải hiểu ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG.
Đó là một cuốn sách mỏng, chỉ ít trang, nhưng về phẩm chất thì nó là một trong
những cuốn sách tuyệt vời nhất, tầm cỡ nhất. Và, từ ngạc nhiên tới ngạc nhiên,
nó được viết trong thời hiện đại. Không ai biết tác giả Mabel Collins là ai.
Tác giả không bao giờ viết tên đầy đủ Mabel Collins, mà chỉ viết M.C. Chỉ tình
cờ mà tôi biết tên đầy đủ thông qua một vài người bạn của M.C.
Tại sao lại
là M.C? Tôi có thể hiểu lý do. Người viết chỉ là phương tiện, và còn cụ thể hơn
trong trường hợp của ÁNH SÁNG TRÊN CON ĐƯỜNG. Có lẽ vị Sufi, Khird – tôi đã nói
với bạn về vị đó: linh hồn dẫn dắt, hướng dẫn, giúp sức mọi người – phía sau
công việc của M.C.
M.C là một
người theo thuyết Thần trí. Ông ấy hoặc bà ấy – tôi không biết tác giả là đàn
ông hay đàn bà, dù sao điều đó cũng không thành vấn đề – hoặc có thể không muốn
được hướng dẫn bởi Khird, ý tưởng Sufi về sự hướng dẫn tối thượng. Nhưng M.C hẳn
vô cùng hạnh phúc nếu tôi dùng song song tên thuyết Thần trí: Họ gọi nó là K.H.
bất kỳ tên nào cũng sẽ được. Bạn gọi nó là gì không thành vấn đề… Bậc Thầy K.H
hoặc nhà huyền môn Khirja, tất cả điều đó đều như nhau. Nhưng cuốn sách vô cùng
bổ ích. Dù ai đã viết nó, dù ai đã hướng dẫn người viết, điều đó không quan trọng;
chính cuốn sách đứng sừng sững như một tòa tháp vàng.
Thứ tư: Tôi
hoàn toàn ổn, đừng lo lắng chỉ bởi tôi đang đếm đúng. Tình cờ điều đó xảy ra do
tai nạn. Cuốn thứ tư là của người phụ nữ Kashmir, Lalla. Người Kashmir rất yêu
Lalla, họ nói họ kính trọng bà và họ chỉ có hai từ: một là Alla và hai là
Lalla. Chín mươi chín phần trăm người Kashmir là Hồi giáo, cho nên khi họ nói họ
chỉ biết hai từ, Allah và Lalla, điều đó rất quan trọng.
Lalla không
bao giờ viết sách. Bà ấy là người thất học, nhưng rất can đảm... Bà ấy giữ trần
trụi suốt cuộc đời mình – và nên nhớ điều này một trăm năm trước ở phương Đông
– và bà là một người phụ nữ đẹp. Người Kashmir rất đẹp; ở Ấn Độ, họ là những
người thực sự đẹp. Họ là bộ tộc bị thất lạc mà Moses đã tìm kiếm. Về cơ bản, về
nguồn gốc thì họ là người Do Thái.
Khi Moses dẫn
đoàn người của mình tới Israel... và người ta tự hỏi người điên đó đang làm gì:
tại sao lại tới Israel? Nhưng người điên nhất trong những người điên không đưa
ra sự giải thích nào. Moses đang tìm kiếm nơi chốn cho người của mình. Ông ấy
đã lang thang suốt bốn mươi năm trong sa mạc, và sau đó tìm ra Israel. Trong
khi đó ông ấy đã lạc mất một trong những bộ tộc của mình. Bộ tộc đó đã tới
Kashmir.
Đôi khi, ít
nhất thì bị lạc cũng là điều may mắn. Moses đã không thể tìm ra họ. Bạn có biết
là vì đi tìm bộ tộc bị lạc mà cuối cùng ông ấy đã tới Kashmir... và ông ấy đã
qua đời tại đó. Ngôi mộ của ông không ở Israel mà ở Kashmir.
Thật kỳ lạ,
Moses chết ở Kashmir, Jesus chết ở Kashmir. Tôi cũng đã ở Kashmir rất nhiều lần,
và tôi biết đó là nơi mà có người nói, “..ahhh, ta có thể chết tại thời điểm
này, ở đây và bây giờ...!” Nó quá đẹp đến mức sau đó nếu có sống thì cũng không
đáng giá gì.
Người Kashmir
rất đẹp – nghèo, nhưng vô cùng đẹp. Lalla là một phụ nữ Kashmir, thất học,
nhưng bà vẫn có thể hát ca và nhảy múa. Cho nên một số ít bài ca của bà đã được
lưu giữ. Bà, tất nhiên, không thể được lưu giữ, nhưng những bài ca của bà thì lại
được lưu giữ. Tôi tính chúng trong phần tái bút của tôi.
Thứ năm: Nhà
huyền môn khác, Gorakh, một nhà Mật tông, một người đàn ông rất thông thạo, rất
hiệu quả về các phương pháp Mật tông đến mức bất kỳ ai ở Ấn Độ, nếu biết nhiều
công việc thì cũng được biết đến như là công việc gorakh-dhandha.
Gorakh-dhandhan có nghĩa là ‘với công việc của Gorakh’. Mọi người nghĩ người ta
nên bám vào công việc của mình. Gorakh hoạt động theo mọi hướng, trong mọi khía
cạnh.
Tên đầy đủ của
Gorakh là Gorakh-nath. Chắc nó được đặt bởi những môn đệ của ông, bởi vì nath
có nghĩa là chúa tể. Gorakh đã đưa ra mọi chìa khóa có thể để đi vào những điều
huyền bí nội tại. Ông ấy đã nói mọi điều có thể được nói. Theo cách đó, ông ấy
là một dấu chấm.
Nhưng thế giới
vẫn tiếp diễn, cho nên tôi cũng vậy. Thế giới biết không có dấu chấm, tôi cũng
vậy. Tôi sẽ chết ở giữa câu; thế rồi mọi người mãi tự hỏi tôi sẽ nói gì, tôi sẽ
hoàn thiện câu nói như thế nào. Tôi kính trọng Gorakh-nath. Tôi đã nói nhiều về
ông. Vào một ngày nó sẽ được dịch, cho nên tôi không cần lãng phí thêm thì giờ
về người đồng nghiệp này nữa.
Thứ sáu: Đó
là một người đàn ông hiếm hoi, một người độc thân, cho ra đời hai tác phẩm lớn,
đó là trường hợp của Hubert Benoit. Tôi không biết người Pháp phát âm nó như thế
nào… và họ cũng quá hợm hĩnh về cách phát âm của họ, và tôi cũng quá tùy tiện!
Nhưng tôi không quan tâm – có vấn đề gì đâu nếu một từ bị phát âm sai chỗ này
chỗ kia? Toàn bộ cuộc đời tôi đã bị phát âm sai rồi.
Người đàn ông
này là Hubert Benoit – tôi đã nói đến cuốn sách đầu tiên của ông, LET GO. Thực
tế đó là cuốn thứ hai của ông. Trước khi viết cuốn LET GO, ông đã viết cuốn THE SUPREME DOCTRINE (SIÊU HỌC THUYẾT). Tôi
cũng muốn tính cuốn sách đó; nếu không tôi sẽ cảm thấy rất buồn vì không nói đến
nó. Đó là cuốn sách vô cùng tuyệt nhưng cũng rất khó đọc, và rất khó hiểu.
Nhưng Benoit đã cố để làm cho nó thành đơn giản nhất có thể.
Thứ bảy. Con
số bí truyền tuyệt vời, bảy. Tôi muốn nó được trao cho người đồng nghiệp thực sự
bí truyền, Shiva, khái niệm Hindu về lòng tốt tối thượng. Nhiều cuốn sách mang
tên Shiva; nhiều trong chúng không thật, chúng đang sử dụng tên chỉ để trở nên
được tôn trọng. Nhưng cuốn sách này là một trong những cuốn đích thực nhất,
SHIVA SUTRA (KINH SHIVA). Tôi đã nói về nó bằng tiếng Hindi; tôi cũng đang nghĩ
đến việc nói về nó bằng tiếng Anh. Tôi đã quyết định thời điểm, nhưng bạn biết
tôi đấy…
Cuốn KINH
SHIVA này chứa mọi kỹ thuật của tất cả thiền. Không thể có bất kỳ kỹ thuật nào
khác mà lại không được tính trong cuốn sách này. KINH SHIVA chính là kinh thánh
của các thiền nhân.
Ashu, tôi biết
tại sao họ đang cười. Cứ để họ cười. Tôi biết tôi đang nói rất, rất chậm, chính
vì vậy mà họ đang cười. Nhưng tôi thích thú điều đó và họ đang cười cái cười của
họ. Quá hay, Ashu… chỉ tình cờ người ta mới có thể nhận ra một người phụ nữ quá
tuyệt như vậy. Có rất nhiều phụ nữ đẹp trên thế gian, nhưng những người phụ nữ
tuyệt, lạy Chúa, lại rất khó tìm. Hãy để cho những kẻ ngốc cười. Tôi sẽ nói chậm
như tôi muốn.
Tôi đã nói về
KINH SHIVA. Cuốn sách này không giống những cuốn khác, nó là duy nhất, là không
thể so sánh.
Thứ tám: Tác
phẩm tuyệt vời nhất của nhà huyền môn Ấn Độ, Gaurang. Từ gaurang có nghĩa là
‘người da trắng’. Ông ấy quá tuyệt đẹp… tôi có thể nhìn thấy ông đang đứng ngay
bên tôi, chỉ là màu trắng, hoặc đúng hơn là tuyết-trắng. Ông ấy quá đẹp đến mức
mọi cô gái trong làng đều yêu ông. Và ông ấy vẫn là người đàn ông độc thân. Người
ta không thể kết hôn với hàng triệu cô gái. Chỉ một trong họ là quá đủ rồi;
hàng triệu, lạy Chúa! – điều đó sẽ kết liễu bất kỳ người nào! Bây giờ bạn biết
bí mật tại sao tôi lại độc thân.
Gaurang thường
nhảy múa và hát ca thông điệp của mình. Thông điệp của ông không bằng lời nói,
mà còn hơn thế – bài ca. Gaurang đã không viết cuốn sách nào; những người yêu của
ông – và có rất nhiều, thực tế quá nhiều – họ tuyển tập những bài ca của ông.
Những bài ca đó là một trong những tuyển tập đẹp nhất; tôi chưa bao giờ tình cờ
thấy điều gì giống như vậy, trước đây và sau này. Nói gì về chúng… chỉ có thể là
tôi yêu chúng.
Thứ chín: Lại
một nhà huyền môn khác, có thể bạn đã không nghe về ông ấy. Ông ấy được gọi là
Dadu, có nghĩa là người anh em. Ông ấy quá dễ thương đến mức mọi người đã quên
tên thực của ông và chỉ nhớ ông là Dadu, người anh em. Có hàng nghìn bài ca mà
Dadu đã ca hát, nhưng chúng không được viết bởi ông, chúng được tuyển chọn bởi
những người khác, giống như người làm vườn thu lượm những bông hoa đã rụng từ
lâu.
Những gì tôi
nó về Dadu cũng đúng đối với mọi vị thánh hiền. Họ chống lại việc viết. Họ ca
hát, họ nói, họ nhảy múa, họ chỉ ra, nhưng họ không viết. Viết một cái gì đó là
làm cho nó thành rất giới hạn. Từ ngữ là giới hạn; vì thế mà nó mới có thể là từ
ngữ. Nếu nó là vô hạn thì nó sẽ là bầu trời đầy sao. Đó chính là trải nghiệm của
vị thánh hiền.
Bản thân tôi
cũng đã không viết bất kỳ thứ gì… chỉ một vài lá thư cho những người rất thân với
tôi, nghĩ hoặc có lẽ tin rằng họ sẽ hiểu. Tôi không biết họ có hiểu hay không.
Cho nên, cuốn VỊ TRÀ (A CUP OF TEA) là cuốn sách duy nhất có thể nói là đã được
viết bởi tôi. Nó là tuyện tập những thư của tôi. Ngược lại, tôi đã không viết bất
kỳ thứ gì.
Những bài ca
của Dadu đã được tuyển tập. Tôi đã nói về ông. Ông đạt tới những đỉnh cao mà
con người có thể khao khát.
Thứ mười, người
cuối cùng. Người cuối cùng ngày hôm nay là một trong những người kỳ lạ nhất từng
bước đi trên trái đất, Sarmad. Ông ấy là vị Sufi, và ông đã bị sát hại trong
nhà thờ Hồi giáo theo lệnh của vị vua Hồi giáo. Ông ấy bị sát hại chỉ vì câu
kinh Hồi giáo nào đó, một trong những lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện là:
“Allah la il allah – Allah, Thượng đế, là Thượng đế duy nhất.” Và điều đó không
đủ với họ; họ muốn một cái gì đó hơn. Họ muốn tuyên bố với thế giới rằng
Mohammed là nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế: “Allah la il allah; mohammed
bismillah. Thượng đế là Thượng đế duy nhất, và Mohammed là nhà tiên tri duy nhất
của Thượng đế.”
Các vị Sufi từ
chối phần hai, rằng Mohammed là nhà tiên tri duy nhất của Thượng đế. Đó là tội
của Sarmad. Rõ ràng không ai có thể là nhà tiên tri duy nhất; không ai có thể
là tuyệt đối duy nhất – Mohammed, hay Jesus, hay Mosee, hay Phật. Sarmad đã bị
trừng trị, bị giết hại, bị mạt sát bởi vị vua Hồi giáo Ấn Độ, cùng âm mưu với
các vị tu sĩ Hồi giáo. Nhưng ông đã cười vang và nói, “Thậm chí sau cái chết của
mình tôi vẫn nói như vậy: Alla la il allah – Thượng đế là Thượng đế duy nhất.”
Nhà thờ Hồi
giáo lớn ở Delhi, tên Jama Masjid, nơi Sarmad bị giết hại, vẫn còn đứng đó, như
một đài kỷ niệm đối với con người vĩ đại này. Ông ấy bị giết hại theo cách rất
bất nhân: đầu ông bị chém. Đầu ông lăn xuống các bậc đi của nhà thờ Jama. Hàng
nghìn người đứng đó đều nghe thấy cái đầu lăn xuống các bậc đá cùng tiếng thét,
“Allah la il allah – Thượng đế là Thượng đế duy nhất...”
Tôi không biết
câu chuyện có thật hay không, nhưng nó chắc chắn như vậy. Nó phải như vậy. Thậm
chí sự thật cũng phải bao gồm con người như Sarmad. Tôi yêu Sarmad. Ông ấy
không viết bất kỳ cuốn sách nào, những lời nói của ông đã được tuyển tập và điều
ý nghĩa nhất là: Thượng đế là duy nhất Thượng đế, và không có nhà tiên tri,
không có ai giữa bạn và Thượng đế. Không có người môi giới, Thượng đế sẵn sàng
ngay lập tức. Tất cả điều cần đến là một chút điên khùng và nhiều thiền.
Tôi sẽ nói về
một cái gì đó, nhưng tôi sẽ không nói… điều đó là không thể nói. Nó chưa bao giờ
được nói trước đó, và tôi cũng không nên nói nó.
Nó rất đẹp
như hoàn hôn…
những chú
chim bay về tổ,
những vì sao
đầu tiên đang mọc,
bầu trời muôn
sắc màu.
Bạn có thể
nhìn thấy
nụ cười trên
gương mặt tôi?
Xem tiếp Chương 8 - Quay về Mục lục