Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Bộ sưu tập sách Việt ngữ trên trang Thiền OSHO

Bộ sưu tập sách Việt ngữ trên trang Thiền OSHO



Tôi không nhớ đã sưu tầm các tác phẩm của Người bằng Việt ngữ chính xác tự bao giờ, nhưng đến nay đã được gần 90 quyển:
Tôi đã say mê làm đêm làm ngày bất cứ lúc nào “rảnh rỗi” (Thật ra có ai mà quởn trong thời buổi kinh khủng này). Nhưng một hôm tôi giựt mình tỉnh thức nhờ đọc một câu chuyện nhỏ mà Người đã từng kể trong một bài nói. Hôm nào tìm lại được câu chuyện đó trên trang Thiền OSHO tôi sẽ repost cho bạn xem.
Vậy là từ bữa đó trở đi, mỗi ngày dù bận cỡ nào tôi cũng đọc 1, 2 trang những lúc ngồi trong xe chờ vợ từ chỗ làm ra; 10-15 phút trước khi đi ngủ, hoặc thường nhất là khi vừa đọc vừa gõ lên bàn phím, sửa lỗi chính tả để post bài lên trang Thiền OSHO.
Chẳng biết cho tới ngày nhắm mắt xuôi tay, tôi có đọc hết các tác phẩm của Người không nữa! Đó là còn chưa kể rất nhiều tác phẩm chưa được dịch sang Tiếng Việt!!
Thú thiệt, tôi cũng thích thú đọc các nguyên tác bằng Anh ngữ vì chúng mang cái âm hưởng đặc biệt của Người khi Người nói Tiếng Anh. Tôi cũng hơi tài lanh khi có ý định dịch sang Tiếng Việt các nguyên tác mà tính đến nay còn chưa được các dịch giả rớ đến. Có lẽ vài ngày dịch một trích đoạn và post lên luôn trên trang này. Bạn hữu hãy chờ xem tôi có nói dóc không nhé!

Thôi, hôm nay vậy đủ rồi. Khá khuya.

Osho - Con đường hoàn hảo

Osho - Con đường hoàn hảo



Mục lục
Chương 6 - Buổi sáng thứ ba
Chương 7 - Buổi tối thứ ba
Chương 8 - Buổi sáng thứ tư
Chương 9 - Buổi tối cuối cùng
Chương 10 - Lời chào tạm biệt
Hết

Chương 5: Buổi tối thứ hai

Osho - Con đường hoàn hảo
Chương 5: Buổi tối thứ hai


Buổi tối thứ hai 5 tháng 6 năm 1964, buổi tối.

Người hỏi đầu tiên: Thầy có nghĩ rằng trở nên đạo đức là điều tồi tệ không?
Không. Tôi không cho rằng trở nên đạo đức là tồi tệ, nhưng tôi cho rằng ảo ảnh của việc trở nên đạo đức là tồi tệ. Nó len lỏi vào con đường đạo đức thực sự.
Đạo đức giả tạo là cái áo bên ngoài, là vỏ bọc. Nó không có mục đích nào khác ngoài việc thỏa mãn thói đạo đức giả, theo quan điểm của tôi, không có trạng thái nào của tâm trí đồi bại hơn thói đạo đức giả và thói ích kỷ. Đạo đức giả khoe khoang sự khiêm nhường, khoe khoang tự do vì sự ích kỷ, ở bên dưới bản ngã được nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ. Bạn có nhìn thấy sự thật, những gì tôi đang nói về cái gọi là các sadhu và các vị thánh ở đất nước này không? theo quan điểm của tôi, cái gọi là đạo đức này, cái đã kế thừa, đã trau dồi và đã đạt được bởi nỗ lực, thì không là gì cả mà chỉ là những hành vi. Thông thường, những điều bên trong tâm trí con người chỉ là sự đối nghịch. Điều gì xuất hiện trên bề mặt thì lại vắng mặt bên trong. Có những bông hoa ở trên và những bụi gai ở dưới. Cuộc chiến không ngừng giữa hành vi bên ngoài và thực tại bên trong, khoảng trống không thể bắc cầu giữa ý thức và vô thức này đã chia rẽ và làm tan rã tính cách của con người. Trong con người như vậy không có sự hòa hợp. Và ở đâu không có sự hòa hợp hoặc âm nhạc thì không có niềm vui. Theo quan điểm của tôi, cuộc sống đạo đức thực sự là sự biểu cảm của niềm vui.
Đạo đức là trục bản lề của niềm vui, là biểu cảm tự nhiên. Khi niềm vui tuôn trào từ bản thể bên trong con người thì nó được biểu hiện ra từ bên ngoài thành tư cách đạo đức tốt, thành đức hạnh. Hương thơm của phúc lạc tỏa ra từ con người như vậy là điều thực sự tốt đẹp của cuộc sống.
Vì vậy mà tôi yêu cầu các bạn hãy tạo ra sự hòa hợp, không xung đột. Xin hãy cố gắng nhìn thấy sự thật này. Đừng chỉ lắng nghe những gì tôi nói mà hãy cố sống như vậy. Vậy thì bạn sẽ nhìn thấy với chính bàn tay của mình, chúng ta đã ném những cuộc đời chúng ta vào tình trạng hỗn loạn của xung đột, và với sự đối ngẫu bên trong - nhưng cũng với những cuộc đời đó, chúng ta có thể đã được biến đổi thành sự sống tuyệt diệu và tuôn chảy không ngừng, thành âm nhạc linh thiêng.
Đạo đức tự xuất hiện như bông hoa nở từ cây xanh. Đó không phải là sự tự thực hiện. Những hạt mầm thiền định được gieo và sau đó vụ mùa đạo đức được thu hoạch. Đạo đức là một cái gì đó đạt được bởi nỗ lực. Nó là một cái gì đó được thực hiện, đạt được thông qua thiền. Sự tĩnh lặng, sự hòa hợp và vẻ đẹp tuôn chảy từ thiền. Và người tĩnh lặng bên trong chính mình không thể gây ra sự thao thức, không nghỉ ngơi cho người khác. Người có âm nhạc bên trong mình sẽ tìm ra tiếng vọng âm nhạc của chính mình dội lại từ mọi người xung quanh, và người có vẻ đẹp bên trong sẽ nhận ra hành vi của mình làm cho tất cả mọi điều xấu xa biến đi. Có phải bởi chính đạo đức hay bởi tất cả?

Người hỏi thứ hai: Thầy nói rằng đạo đức là điều thiết thực của xã hội. Nó quá vô dụng đối với cá thể phải không?
Đối với xã hội thì đạo đức hoặc hành vi đạo đức chỉ đơn giản là vị lợi, nhưng đối với cá thể thì nó không mang tính thiết thực mà chỉ là niềm vui. Do vậy, nhu cầu xã hội được thỏa mãn bởi đạo đức giả, nhưng thậm chí điều này không đủ tốt đối với cá thể. Nếu bạn cư xử tốt đối với những người khác thì cũng là đủ tốt đối với xã hội, nhưng điều đó không đủ tốt với bạn. Bạn phải có khả năng nhìn thấy điều này - cho dù bạn có tốt ở bên trong bạn hay không. Xã hội liên quan tới tính cách của bạn mà không liên quan tới thực tại bên trong bạn. Nhưng đối với bạn thì tính cách không gì hơn đồ trang sức. Bạn phải bắt đầu từ nơi mà cái vỏ trang sức này bị bỏ đi. Tách biệt phía sau mặt nạ của tính cách cá nhân này là bạn thực sự. Và đây là nơi mà đạo đức thực sự sinh ra.
Xã hội được tạo ra bởi đạo đức giả được gọi là xã hội văn minh, trong khi xã hội bao gồm những con người đạt được sự thật của cuộc sống thì được gọi là văn hóa. Đây là sự phân biệt giữa xã hội văn minh và văn hóa. Văn minh là thực dụng; văn hóa là sự hòa hợp niềm vui bên trong.
Ngày nay chúng ta có xã hội văn minh mà không có văn hóa. Chúng ta có thể tạo ra nền văn hóa này nếu tất cả chúng ta nỗ lực cùng nhau. Văn minh xuất hiện từ việc làm trong sạch cách cư xử của chúng ta với những người khác; văn hóa xuất phát từ việc làm trong sạch chính chúng ta, từ việc trở nên đạo đức. Văn minh là cơ thể; văn hóa là tâm hồn. Chỉ những người bám rễ sâu vào tâm hồn họ thì tạo ra văn hóa.

Người hỏi thứ ba: Tôn giáo không phải là xã hội sao? có phải nó là hoàn toàn cá nhân?
Đúng, tôn giáo là vấn đề tuyệt đối cá nhân. Xã hội không có linh hồn, không có trung tâm thức tỉnh như vậy. Xã hội chỉ đơn giản là sản phẩm của mối quan hệ qua lại của chúng ta. Cá thể có linh hồn và vì vậy tôn giáo cũng phải là cá thể. Tôn giáo không phải là một trong những mối quan hệ của tôi, nó là thực tại của tôi. Khám phá bản năng thực của con người, bản thể thực của con người và biểu cảm tiếp theo là tôn giáo.
Tôn giáo, dharma là tự nhận biết. Kể từ khi tôn giáo không là xã hội thì Sadhana của con người, sự hành đạo của con người không liên quan đến nhóm, nhưng kinh nghiệm hành đạo của con người lại tỏa ánh sáng lên nhóm, lên xã hội. Mặc dù việc hành đạo là cá nhân nhưng nó cũng có ảnh hưởng đến xã hội. Khi con người tràn đầy ánh sáng bên trong thì hành vi của người đó cũng thấm đẫm ánh sáng đó. Thực tại bên trong là cá thể, là cá nhân, nhưng hành vi là xã hội.
Sadhana chưa bao giờ có thể là chung, đối với người đã biết bản thể mình thì không thể trong tập thể gồm những người khác, là một mình, tất cả chỉ là một mình. Plotinus nói: “Đó là chuyến bay của một mình tới một mình”. Điều đó quá đúng. Quả vậy, chuyến bay là thực sự một mình, không bầu bạn. Nhưng niềm vui xuất hiện từ chuyến bay lây sang người khác và cũng làm họ cảm động. Những gì đạt được trong một mình, trong đơn độc của bản thể thì hương thơm của nó cũng lan tỏa theo bốn phương.
Người hỏi thứ tư: Thượng đế là gì?
Thượng đế không phải là người mà là sự tồn tại. Người có tầm nhìn và trải nghiệm vũ trụ sau khi bản ngã tan biến thì tôi gọi là Thượng đế. Không có dạng kinh nghiệm cụ thể của Thượng đế, đúng hơn là trải nghiệm về tình yêu tuyệt vời, tình yêu vạn vật là Thượng đế. Nó không có trung tâm; nó là toàn bộ tồn tại. Toàn bộ tồn tại là trung tâm của nó. Nói về trải nghiệm Thượng đế là không đúng nhưng bạn có thể nói trải nghiệm tình yêu tuyệt vời là Thượng Đế.
Tình yêu là mối quan hệ giữa hai người. Khi mối quan hệ tương tự hiện diện giữa cá thể và tồn tại thì tôi gọi là Thượng đế. Giai đoạn tối thượng, sự nở hoa của tình yêu là Thượng đế. Ở đây tôi nhớ lại câu hỏi của Christ: “Thượng đế là tình yêu”.
Khi “Tôi” biến đi thì những gì còn lại là tình yêu. Khi những bức tường vây xung quanh bản ngã sụp đổ, những gì còn lại giữ lại là tình yêu. Và chính tình yêu là Thượng đế. Vì vậy việc biết Thượng đế là điều không thể nhưng trở thành Thượng đế là điều có thể.
Người hỏi thứ năm: Thầy nói cuộc đời mà chúng ta sống chưa bao giờ là cuộc đời mà là quá trình kéo dài của hấp hối. Thầy ngụ ý gì khi truyền đạt điều này?
Quá đúng khi chúng ta gọi cuộc sống không phải là sống. Nếu nó thực sự là sống thì tại sao nó lại có thể kết thúc bằng cái chết? sống và cái chết là hai vấn đề trái ngược cho nên làm cách nào mà là cái chết có thể thỏa mãn cuộc sống? Cái chết là điểm kết thúc của sinh ra mà không phải kết thúc sống.
Và bởi vì cái chết xuất hiện ở thời điểm cuối cho nên đừng nghĩ rằng nó chỉ bắt đầu ở thời điểm cuối đó. Nó có mặt khi sinh ra. Nó bắt đầu vào chính cái ngày mà con người sinh ra. Sau khi sinh ra, chúng ta hấp hối ở mọi thời điểm. Khi quá trình hấp hối kết thúc, chúng ta gọi nó là chết. Những gì trong ngày sinh như là hạt mầm thì ở thời điểm cuối cùng nó sẽ xuất hiện như là quả chín nẫu. Vì vậy không có gì chắc chắn sau khi chết, nhưng cái chết là chắc chắn. Nó là chắc chắn bởi vì nó đến cùng với sinh ra. Sinh ra chỉ là tên khác của chết; nó là hạt mầm của chết. Hãy hiểu điều này một cách cẩn trọng. Bạn bắt đầu hấp hối vào cái ngày mà bạn sinh ra. Chính vì vậy mà tôi nói rằng, cuộc sống như chúng ta biết không phải là cuộc sống mà là quá trình kéo dài chậm rãi của hấp hối.
Chúng ta quen thuộc với việc hấp hối từ từ này chứ không phải là quen thuộc với sống, chúng ta luôn bận rộn về việc cố gắng cứu thoát chúng ta khỏi điều đó. Tất cả các kế hoạch và hành động của chúng ta là đạt được biện pháp an toàn và tự bảo vệ nào đó. Chúng ta đang làm gì? có phải tất cả thời gian chúng ta bận rộn là để bảo vệ chính chúng ta khỏi cái chết? con người trở nên mộ đạo cũng với lý do tương tự, để bảo vệ. Vì vậy mà họ theo tôn giáo khi họ cảm thấy cái chết đang đến gần. Đối với phần lớn thì tôn giáo của những thế hệ cũ là dạng như vậy. Tôi không gọi đây là sự mộ đạo thực sự. Đó chỉ là khía cạnh của sợ chết. Đó là biện pháp an toàn cuối cùng. Lòng mộ đạo thực sự không xuất hiện từ nỗi sợ hãi mà là từ sự trải nghiệm sống.
Chúng ta nên nhận biết rằng, những gì chúng ta biết ở hiện tại thì không là gì khác ngoài cái chết - và sự nhận biết này về cái chết sẽ đưa chúng ta tới bất tử. Cơ thể chết; nó đang hấp hối ở mọi thời điểm. Bằng việc quan sát cơ thể, bằng việc thức tỉnh đối với sự nhận biết về bất tử này, chúng ta bắt đầu trải nghiệm những gì không là cơ thể. Biết những gì không là cơ thể, biết linh hồn thì cũng là biết cuộc sống trong thực tại của nó, bởi vì linh hồn chưa bao giờ sinh ra và vì vậy nó chưa bao giờ chết. Sự thật tồn tại trước khi bạn sinh ra và tiếp tục tồn tại thậm chí sau cái chết của bạn. Đây là sống. Cuộc sống không phải là sự trải dài giữa sống và chết - ngược lại, sinh ra và chết chỉ là nhiều sự kiện xuất hiện trong tiến trình của sống.
Trong lúc thiền, khi tâm trí tĩnh lặng và trống rỗng, một cái gì đó khác biệt và tách rời với cơ thể có thể được nhận thấy. Nó không thể được nhận ra khi tâm trí không nghỉ ngơi, giống như con người không thể nhìn xuống đáy hồ khi có nhiều gợn sóng trên mặt hồ. Và cũng vì dòng ý nghĩ-gợn sóng trong tâm trí mà những gì ẩn dấu bên dưới chúng vẫn giữ nguyên ẩn dấu - và chúng ta coi bề mặt là toàn bộ sự thật. Cơ thể chỉ là nơi cư ngụ của con người lại có vẻ như là tất cả, như là mọi thứ. Nó tạo ra ảo ảnh rằng cơ thể là thực tại, là cuộc sống của con người. Bạn cho rằng toàn bộ bạn là giới hạn trong cơ thể và không còn gì hơn nữa sao. Sự nhận dạng này về cơ thể, ảo ảnh này về cơ thể không cho phép chúng ta biết bản thể thực của chúng ta, chúng ta nhìn quá trình diễn biến của hấp hối xuất hiện trong suốt cuộc đời như là cuộc sống. Nếu bạn nhìn việc xây dựng và phá hủy ngôi nhà của mình tương tự như sinh và tử thì đó cũng là một dạng sai lầm.
Bóng tối biến đi bởi sự xuất hiện của tinh thần tĩnh tại. Ảo ảnh được tạo ra bởi sự lo lắng tinh thần, nó cũng bị xua đuổi bởi tĩnh lặng. Những gì bị che khuất bởi những cơn sóng thì lại được tiết lộ bởi sóng lặng. Vì vậy mà lần đầu tiên chúng ta biết cư dân của cơ thể này. Ngay khi chúng ta biết cư dân đó thì cái chết không còn là những bộ trang phục cũ bị bỏ đi, và sinh ra sẽ có những bộ trang phục mới. Thế thì sẽ có những thực thể sống không cần trang phục. Chỉ những người tôi gọi là sống động là người biết dạng sống như thế này. Những người nhìn vào cơ thể như là bản thể họ thì vẫn còn là tê liệt. Cuộc sống thực sự của họ hãy còn chưa bắt đầu. Họ đang ở trong giấc mơ, mơ ngủ, trong ảo ảnh nhạt nhòa.
Nếu không thức dậy từ giấc mơ này, không thức dậy từ ảo giác rằng cơ thể là ta thì con người sẽ không bao giờ có khả năng biết bản thể mình, cốt lõi của mình, sự sống của mình. Thế gian tràn ngập điều vô nghĩa, tràn ngập cuộc sống tê liệt, và đa số con người là hấp hối và chưa bao giờ sống. Họ đang kiệt sức về việc tự bảo vệ khỏi cái chết, và họ chưa bao giờ biết người bên trong, sự bất tử bên ngoài cái chết.

Người hỏi thứ sáu: tôi suy ra từ những câu nói của thầy rằng tôi là tê liệt, là chết. Tôi nên làm gì để trở nên sống động?
Bạn của tôi, nếu bạn nghĩ như vậy chỉ vì lời nói của tôi thì điều đó không giá trị gì. Hãy quên những gì tôi đã nói, những gì người khác nói và hãy nhìn lại xem. Chính bạn phải nhìn nó. Chính cái nhìn đó sẽ trở thành con đường dẫn bạn tới cuộc sống. Vậy thì bạn sẽ không phải hỏi, “Tôi nên làm gì để trở nên sống động?”
Nếu con người tình cờ nhận ra anh ta là tê liệt, sự tồn tại của anh ta, tính cách của anh ta đã chết từ lâu, thế thì tại sao thời điểm đó sẽ bắt đầu nhìn thấy đó không phải là cái chết. Nhưng với bạn, để nhìn thấy điều này thì sự lo lắng tinh thần của bạn phải bị quẳng đi. Hãy nhìn, darshan chỉ có thể khi tâm trí tĩnh lặng, trống rỗng, thoát khỏi đam mê. Hiện tại chỉ có những ý nghĩ. Không có nhìn, không darshan. Nghĩ về những gì tôi đã nói với bạn là đúng thì cũng chỉ là nghĩ. Ý nghĩ này sẽ không bao giờ là hữu ích.
Nghĩ không thể khám phá ra sự thật bởi vì tất cả mọi ý nghĩ là vay mượn. Tất cả ý nghĩ phụ thuộc vào người khác. Tất cả những ý nghĩ đó chỉ che dấu sự thật nhiều hơn. Bạn đã bao giờ nhận ra rằng tất cả ý nghĩ của bạn là vay mượn từ người khác, rằng chúng thực sự thuộc về người khác không? bạn đã cóp nhặt những đồng vốn giả tạo. Đừng phụ thuộc vào nó bởi vì nó không bao giờ là vốn liếng cả. Lâu đài xây dựng trên kiểu vốn này giống như những người gắn vào những giấc mơ. Thậm chí chúng còn không thực như những trò chơi xếp nhà.
Tôi không muốn bắt bạn nghĩ. Tôi không muốn làm bạn tràn ngập bởi những thứ vay mượn. Tôi không muốn bạn nghĩ mà là muốn bạn thức tỉnh. Tôi muốn bạn từ bỏ nghĩ và chỉ nhìn. Và thế rồi nhìn những gì xuất hiện. Tiến lên phía trước nghĩ để nhìn. Sự một mình này sẽ dẫn bạn tới sự thật và tới lợi nhuận thực, tới giàu có thực sự mà chúng là của chính bạn. Tuyệt vời làm sao, quá trình nhìn-không-nghĩ đã dỡ bỏ bức màn hằng che phủ điều huyền bí mà không cần đến hành động của bạn.
Nên nhớ, không có kinh nghiệm giá trị trên thế gian mà người khác có thể trao cho bạn. Bất kỳ điều gì có thể trao tặng chưa bao giờ có giá trị. Hoặc không có kinh nào có thể được trao tặng. Những thứ thuộc về vật chất có thể trao, nhận, trao đổi, nhưng không có cách nào để đổi chác kinh nghiệm sống. Về cốt lõi của trải nghiệm, Mahavira h Đức Phật hoặc Krishna hoặc Christ không thể trao cho bạn bất kỳ điều gì. Những người khác bám vào nghĩ, chấp nhận những ý nghĩ của người khác như là sự thật thì lại bị lấy đi sự thật. Sự thật nhận ra được bởi chính mình, không phải là thứ vay mượn từ người khác, sẽ chính là sự giải thoát.
Nhớ lại kinh Gita, kinh Koran hoặc kinh Thánh sẽ không tác dụng gì. Nó sẽ không mang đến cho bạn sự nhận biết. Ngược lại, nó sẽ bóp nghẹt khả năng của chính bạn về việc tự nhận biết, và bạn sẽ không bao giờ có khả năng đối mặt với sự thật. Những điều bạn nhớ lại từ sách giáo huấn, từ các kinh sách, sẽ luôn xuất hiện giữa bạn và sự thật. Chúng sẽ tạo ra sương mờ và bụi bặm, và việc bạn nhìn thấy nó thực sự là gì là điều không thể. Chúng ta phải dỡ bỏ mọi thứ ngăn giữa chúng ta và sự thật.
Để biết sự thật thì việc yêu cầu nghĩ là điều vô dụng. Lột bỏ mọi thứ và bạn sẽ mở ra. Thế rồi thông qua sự mở rộng đó sự thật sẽ vào bạn và biến đổi bạn. Từ bỏ nghĩ và chỉ nhìn. Mở cửa và nhìn. Đây là tất cả điều tôi phải nói.

Người hỏi thứ bảy: Vậy thì thầy có cho rằng việc nghiên cứu sách giáo huấn là không cần thiết?
Mục đích của việc nghiên cứu sách giáo huấn, kinh sách là gì? bạn không thể đạt được nhận biết theo kiểu như vậy. Nó sẽ chỉ rèn luyện trí nhớ bạn mà thôi. Bạn có thể học hỏi được vài điều, nhưng việc học hỏi và nhận biết là hai vấn đề rất khác nhau. Bạn học hỏi về Thượng đế, về sự thật, về linh hồn. Bạn sẽ có khả năng đưa ra những câu trả lời có sẵn đối với những câu hỏi về chúng. Nhưng không có gì khác giữa điều đó và con vẹt nhà bạn - nói những gì đã được dạy trước. Sự thật không được tìm ra trong kinh sách. Nó ở trong thực tại, ở trong chính bản thể bạn.
Sách giáo huấn chỉ là những lời nói, và chúng chỉ có nghĩa khi con người nhận ra sự thật bên trong mình. Ngược lại chúng không những vô dụng mà còn có hại. Sự thật không thể được biết đến bởi việc học hỏi sách giáo huấn, nhưng nếu bạn biết sự thật thì sách giáo huấn chắc chắn cũng sẽ được biết.
Nhưng tôi nhìn thấy gì trước mặt mình?
Mọi người đang nghiên cứu sách giáo huấn thay vì tìm hiểu sự thật, họ mãn nguyện với kiến thức mà họ thu lượm được từ những học hỏi này. Sự mãn nguyện mới rỗng tuếch và giả tạo làm sao! Chả nhẽ điều đó không cho thấy rằng, chúng ta thực sự không muốn biết sự thật, chúng ta chỉ muốn mọi người tin chúng ta biết sự thật sao? bất kỳ ai thực sự muốn biết sự thật thì không bao giờ thỏa mãn với những lời nói không đáng giá. Bạn đã bao giờ nghe về cơn khát của con người được giải khát bởi chữ "nước" chưa? Nếu được giải khát chỉ bởi chữ nước thì liệu có phải không bao giờ có bất kỳ cơn khát thực sự nào không?
Nếu sách giáo huấn có thể dạy chúng ta rằng, sự thật không thể được nhận ra bởi chúng, vậy thế là đủ. Đây là công dụng duy nhất của nó. Nếu câu chữ có thể nói cho chúng ta rằng, nó là vô dụng, thế thì đó hẳn là mục đích của chính nó. Hẳn là tốt nếu sách giáo huấn không mang đến cho chúng ta sự mãn nguyện mà còn tạo ra sự bất mãn trong chúng ta, hẳn là tốt nếu thay vì cho chúng ta kiến thức thì chúng lại làm cho chúng ta nhận biết sự ngu dốt của mình.
Tôi cũng đang nói những từ ngữ, và đây là cách mà sách giáo huấn trở thành như vậy. Nếu bạn chỉ bám vào câu chữ thì toàn bộ nỗ lực của tôi sẽ là vô dụng. Bạn nhớ lại bao nhiêu câu chữ trong chúng cũng không thành vấn đề, chúng không có tác dụng gì. Những câu chữ đó cũng tống tâm trí bạn vào ngục tù, và thế rồi trong suốt cuộc đời mình, bạn sẽ lan man trong phòng giam tự tạo bằng từ ngữ của bạn. Tất cả chúng ta bị khóa trong những phòng giam do chính chúng ta tạo nên. Nếu bạn muốn biết sự thật, hãy làm cho ngục tù của từ ngữ này bị sụp đổ, phá vỡ những bức tường và đốt cháy ngai vàng thông tin thành tro bụi. Từ tro tàn, nhận biết được sinh ra và trong tự do, tâm thức bạn sẽ nhìn ra sự thật. Sớm hay muộn sự thật sẽ xuất hiện, nhưng bạn phải tự làm căn phòng cho nó trong bạn. Nếu bạn quẳng những lời nói đi thì sự thật sẽ chiếm linh không gian đó.

Người hỏi thứ tám: Con người không thể chinh phục được chính mình bằng việc kìm nén và bằng việc đấu tranh với chính mình?

Chương 5 này còn tiếp
Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục lục

Chương 4 - Buổi sáng thứ hai

Osho - Con đường hoàn hảo
Chương 4 - Buổi sáng thứ hai



Buổi sáng thứ hai, 5 tháng 6 năm 1965.
Những người bạn của tôi, chúng ta không phải đấu tranh với chính chúng tôi, chúng ta phải biết chính mình. Tất cả mọi sự trái ngược và tự-mâu thuẫn đã phát triển trong chúng ta vì sự ngu dốt của chúng ta về bản thể, tất cả những điều này sẽ tan biến dưới ánh sáng của tự -nhận biết - giống như những giọt sương rơi trên ngọn cỏ sẽ biến mất khi mặt trời rọi những tia nắng đầu tiên lên chúng.
Tôi rất hiểu sự tò mò, sự háo hức của bạn về nhận biết. Bạn hăm hở để biết và hiểu sự thật. Bạn muốn biết điều huyền bí của cuộc sống sao cho bạn có thể đạt được sự đầy đủ, sự tràn đầy của nó. Nhưng những gì bây giờ bạn gọi là cuộc sống thì chưa bao giờ là cuộc sống. Nó chỉ có thể được gọi như là quá trình kéo dài và buồn tẻ của hấp hối. Sự thật là, bạn không thể đạt được cuộc sống nếu bạn không biết nó. Sinh ra là một vấn đề, cuộc sống lại là vấn đề rất khác. Có sự khác biệt rất lớn giữa việc xoay sở để sống và phung phí cuộc sống. Có sự khác biệt sâu sắc giữa chết và bất tử. Chết là kết cục không thể tránh khỏi của cuộc sống, trong khi cuộc sống hoàn hảo của con người lại được ban thưởng bởi sự sống linh thiêng, thần thánh.
Đối với những người ước ao đạt tới cuộc sống, trong khi cuộc sống hoàn hảo của con người lại được ban thưởng bởi sự sống linh thiêng, thần thánh.
Đối với những người ước ao đạt tới cuộc sống linh thiêng, những người muốn biết Thượng đế và sự thật thì với tôi có vẻ như có hai dạng tiếp cận. Một là sự tiếp cận bởi đạo đức; hai là sự tiếp cận bởi tôn giáo. Đạo đức và tôn giáo thường không được coi là hai con đường khác biệt. Chúng được coi là hai bước thành công trên cùng một nấc thang. Nói chung, có niềm tin rằng, đối với con người trở nên mộ đạo thì việc đầu tiên là phải trở nên đạo đức. Nhưng đây không phải là quan điểm của tôi.
Tôi sẽ nói với bạn những gì tôi đã nhận biết. Tôi không nhìn thấy rằng, con người đạo đức về cốt lõi là con người mộ đạo mặc dù con người mộ đạo vẫn luôn là đạo đức. Con người không trở nên mộ đạo chỉ bởi trở nên đạo đức, hoặc đạo đức không phải là điểm xuất phát, là cơ sở của tôn giáo. Ngược lại, đạo đức là kết quả của việc trở nên mộ đạo. Những bông hoa đạo đức nở ra bởi cây của tôn giáo. Đạo đức là sự biểu cảm của cuộc đời mộ đạo. Tôi coi tôn giáo và đạo đức là hai con đường khác nhau - không chỉ khác nhau mà còn đối nghịch nhau.
Đạo đức, kỷ luật, có nghĩa là làm tinh khiết tư cách đạo đức, làm trong sạch hành vi cư xử. Đó là nỗ lực để làm thay đổi tính cách của con người ở ngoại vi. Ngoại vi của tính cách là kết quả của cách xử sự của chúng ta đối với người khác. Đó là hành vi của con người, mối quan hệ của con người với người khác. Cách mà tôi hành động hoặc đối xử với người khác đó là hành vi của tôi. Hành vi là mối quan hệ.
Tôi không một mình. Tôi bị vây quanh bởi mọi người từ tất cả các hướng. Kể từ khi tôi tham gia xã hội, tôi thừa hưởng sự liên hệ và có những mối quan hệ với một người nào đó, hoặc với những người khác ở mọi thời điểm của cuộc đời. Mối quan hệ qua lại có vẻ như là cuộc đời chúng ta. Điều tốt và điều xấu trong hành vi của tôi phụ thuộc vào mối quan hệ của tôi là tốt hay xấu.
Chúng ta được dạy phải có tư cách đạo đức tốt. Chúng ta được thuyết giảng rằng, vì xã hội mà điều đó là cần thiết, rằng đó là nhu cầu của xã hội. Nhưng xã hội không có gì liên quan đến bạn, đến tính cách giản dị và tự nhiên của bạn. Từ quan điểm đó, xã hội hẳn là không mất gì nếu bạn dừng tồn tại. Bạn liên quan đến một người nào đó, hoặc tới một cái gì đó chỉ để bạn trở thành quan trọng đối với xã hội. Không phải bạn mà các mối quan hệ của bạn với người khác mới là quan trọng với xã hội. Không phải bạn mà là hành vi của bạn mới có ý nghĩa. Do vậy mà không có gì ngạc nhiên rằng, tư cách đạo đức tốt là sự đạt được của cách giáo dục được truyền đạt bởi xã hội. Đối với xã hội thì con người là tư cách đạo đức của họ, và không có gì hơn nữa.
Nhưng sự giáo dục về tư cách đạo đức tốt này, về đạo đức xã hội này là chủ trương tạo ra ảo ảnh. Nó đã tạo ra ảo ảnh rất nền tảng. Những người thiết tha nhận thức rõ Thượng đế và đạt được tôn giáo tin rằng, việc trở nên đạo đức tốt để đạt được sự thật và sự công bằng là điều cần thiết, họ cho rằng đây là lẽ tự nhiên. Họ tin một cách tự nhiên rằng, hiểu rõ Thượng đế chỉ có thể thông qua tư cách đạo đức tốt, và con người phải đạt được đạo đức tốt trước khi sự thật xuất hiện. Họ tin một cách tự nhiên rằng, sự hiểu rõ tôn giáo và sự thật sẽ phát triển bởi một mình cuộc sống đạo đức, rằng đạo đức là nền tảng và tôn giáo là đỉnh, rằng đạo đức là hạt mầm và tôn giáo là quả ngọt, rằng đạo đức là nguyên nhân và tôn giáo là hậu quả. Nếp nghĩ này có vẻ như rất rõ ràng và đúng đắn, nhưng tôi muốn nói với các bạn rằng, hình như nếp nghĩ đơn giản và rõ ràng này là hoàn toàn lạc lối, và nó tạo ra cái nhìn lầm lạc về thực tại. Vấn đề sự thật là một cái gì đó rất khác.
Thực tế, sự thuyết giảng đạo đức không thể tạo ra con người đạo đức mà không nói đến lòng mộ đạo. Nó chỉ tạo ra con người xã hội, và con người xã hội được cho là con người đạo đức. Chỉ có hành vi tốt không tạo ra con người đạo đức. Sự biến đổi có cần sự làm sạch bên trong. Nếu không có sự biến đổi bên trong, bạn không thể thay đổi tư cách đạo đức của mình. Cố để thay đổi ngoại vi mà không có sự thay đổi trung tâm là giấc mơ trống rỗng. Nỗ lực không chỉ là điều phù phiếm mà còn là điều có hại. Nó là tự sát. Nó không là gì mà chính là tai họa.
Không nghi ngờ gì nữa, sự kìm nén này thỏa mãn nhu cầu xã hội nhưng lại làm đổ vỡ và đảo lộn cá thể. Nó tạo ra sự rạn nứt, sự lưỡng cực trong con người. Tính cách của con người bị mất đi sự giản dị tự nhiên, và con người phải chịu đựng xung đột bên trong mình. Đó là cuộc vật lộn không ngừng, cuộc đấu tranh nội tại vĩnh viễn không bao giờ có kết cục. Đây là sự thỏa mãn nhu cầu xã hội bằng sự trả giá của cá thể. Tôi gọi đây là bạo lực xã hội.
Bất kỳ điều gì con người biểu hiện thông qua hành vi của mình là không quan trọng. Những điều quan trọng thực sự là những nguyên nhân bên trong dẫn tới hành vi đó. Hành vi là sự biểu hiện của tinh thần bên trong, nó không phải là gốc rễ. Hành vi là sự biểu hiện bên ngoài của tinh thần bên trong. Chỉ có những người ngốc mới cố gắng biểu hiện bên ngoài mà không thay đổi nguyên nhân của biểu hiện đó.
Dạng Sadhana này là vô dụng; nó không bao giờ sinh ra quả ngọt. Nó giống như là hành vi của con người cố triệt hạ cây bằng việc cắt đứt các nhánh của nó. Hành động như vậy thay vì triệt hạ cây thì lại gần như tạo điều kiện kích thích cây phát triển. Cuộc sống của cây không phải là ở cành nhánh mà là ở gốc rễ của nó, gốc rễ không thể nhìn thấy trong lòng đất. Những hy vọng tiềm tàng và những ước mong của rễ đạo ra ra hình dạng của cây và những cành nhánh. Việc cắt những cành của nó có ích gì? nếu bạn thực sự muốn mang cuộc cách mạng đến với cuộc sống thì bạn phải đến với cội rễ. Cội rễ của hành vi con người là thực tại bên trong người đó. Hành vi tuân theo thực tại bên trong. Thực tại bên trong không tuân theo hành vi của con người. Do vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hành vi nào cũng chắc chắn tạo ra một dạng ngăn chặn, kìm nén. Và liệu sự kìm nén có mang đến sự biến đổi không?
Sự kìm nén là gì? sự kìm nén không cho phép những tình cảm bên trong phát triển và không cho phép sự biểu cảm của chúng; nó buộc phải mang đến và biểu hiện những gì không thực sự có.
Nhưng chúng ta sẽ kìm nén điều gì và chúng ta sẽ đi đâu? Liệu chúng ta sẽ tự do khỏi nó? Làm cách nào chúng ta đạt được tự do bởi việc kìm nén? Tình cảm bị kìm nén sẽ liên tục có đó bên trong chúng ta, nhưng bây giờ chúng sẽ phải tìm kiếm sâu hơn, tốt hơn và vô thức hơn nơi chúng sống. Chúng vẫn tiếp tục đi vào những vùng sâu hơn. Chúng  sẽ tự ẩn dấu ở nơi mà nhận biết của chúng ta về kìm nén sẽ không có khả năng định vị chúng. Nhưng gốc rễ đã ăn sâu hơn sẽ tiếp tục đâm chồi, những cành của nó sẽ có hoa và ra trái, thế rồi sẽ có cuộc xung đột giữa tâm thức tỉnh và vô thức dẫn đến hậu quả cuối cùng là sự điên khùng.
Điên khùng là hậu quả tự nhiên của nền văn minh dựa trên cơ sở của dang đạo đức giả và rỗng tuếch này. Do vậy, sự điên khùng tăng lên cùng sự tân tiến của xã hội văn minh, và có thể xuất hiện thời điểm khi mà toàn bộ nền văn minh của chúng ta kết thúc trong điên khùng. Hai cuộc chiến tranh khủng khiếp vừa qua là một dạng điên khùng, và chúng ta đang trực diện với cuộc chiến tranh thứ ba, có lẽ là cuộc xung đột cuối cùng.
Có những sự bùng nổ trong cuộc sống cá nhân của con người và những sự bùng nổ đó cũng xuất hiện trong xã hội - bạo lực, hãm hiếp, đồi bại, tàn bạo - tất cả là kết quả của sự kìm nén, ngăn chặn. Con người không thể vươn tới cuộc sống đạo đức và tự nhiên vì sự kìm nén này, vào một ngày nào đó họ sẽ không thể chịu đựng nổi sự căng thẳng này. Không còn nghi ngờ gì nữa, có những người phải viện cớ đến đạo đức giả để tự bảo vệ mình khỏi sự xung đột bên trong này. Họ giả vờ là những gì không phải của họ. Họ trốn khỏi bất kỳ sự xung đột bên trong nào bởi vì họ đang luôn đóng một vai diễn nào đó.
Đạo đức giả cũng sinh ra bởi đạo đức dựa trên sự kìm nén. Nó là phương tiện để giữ cho con người tự do khỏi xung đột bên trong. Như tôi đã từng nói, trong cái gọi là cuộc sống đạo đức của chúng ta, chúng ta không cho phép những cảm xúc tự nhiên phát triển và được biểu cảm, chúng ta chỉ biểu cảm những cảm xúc không thực có. Điều đầu tiên trong hai quá trình đó dẫn đến sự ìm nén; điều thứ hai dẫn đến đạo đức giả. Cuối cùng, quá trình đầu tiên biến bạn thành điên khùng; điều thứ hai biến bạn thành đạo đức giả. Kết quả cả hai đều không tốt; cả hai đều không có giá trị với bạn. Thật không may, nền văn minh của chúng ta chỉ đưa ra hai sự lựa chọn này. Nhưng cũng có sự lựa chọn thứ ba: sống cuộc đời của thú vật. Tội ác sinh ra bởi sự lựa chọn này. Nếu chúng ta ước mong tự bảo vệ chúng ta khỏi điều này, từ việc trở thành thú vật, vậy thì trong cuộc sống văn minh của chúng ta, chúng ta chỉ có hai sự lựa chọn.
Trở thành thú vật có nghĩa là buông bỏ hoàn toàn đối với những bản năng vô thức. Đây là điều không thể, bởi vì những gì đã trở thành ý thức trong con người thì không thể quay trở lại vô thức. Chúng ta tìm kiếm chính sự vô thức này khi chúng ta say xỉn. Sự tìm kiếm những chất làm say là dấu hiệu mong muốn của chúng ta trở thành thú vật. Chỉ khi con người hoàn toàn say xỉn và vô thức thì sẽ phù hợp với bản năng, với thú vật. Nhưng điều này có giá trị như cái chết. Đây là điều hệ trọng và đáng để chúng ta cân nhắc cẩn thận.
Làm cách nào con người trở thành thú vật khi anh ta say xỉn, và tại sao anh ta tìm kiếm chất gây say để trở thành thú vật? đó là dấu hiệu thực tế rằng, ý thức của con người không phải là một phần của thế giới thú vật hoặc của tự nhiên mà nó là một phần của Thượng đế. Đó là khả năng của linh hồn. Nó là hạt mầm không bị hủy hoại mà được nuôi dưỡng. Sự phát triển của nó phụ thuộc hoàn toàn vào tự do, giải thoát, phúc lạc.
Vậy thì chúng ta phải làm gì? xã hội văn minh cho chúng ta ba sự lựa chọn: đó là của thú vật, của người điên và của đạo đức giả. Bằng sự thay đổi nào mà có sự lựa chọn thứ tư?
Đúng, có sự thay đổi thứ tư. Tôi gọi đó là đạo. Đó là con đường của trí thông minh mà trực giác mà không phải là của thú tính, của điên khùng hoặc đạo đức giả. Đó không phải là con đường của sự đam mê, kìm nén hoặc sắm vai, nó là con đường của cuộc sống thực và của nhận biết.
Nó cho quả ngọt tư cách đạo đức tốt và loại bỏ thú vật ra khỏi con người; nó không kìm nén những đam mê vô thức nhưng lại làm cho con người tự do khỏi sự thu hút tới chúng; nó không dẫn đến sự tự phụ về tư cách đạo đức mà dẫn tới cuộc sống thực sự. Nó không đơn thuần mang mặt nạ hoặc bất kỳ hành vi bên ngoài nào, nó là sự chuyển hóa của thực tại bên trong. Nó không phải là sự thỏa mãn xã hội mà là sự thỏa mãn cá nhân. Nó không thay đổi những mối quan hệ mà là sự biến đổi thực tại của chúng ta. Các mối quan hệ tự động thay đổi như là hệ quả. Nó mang đến cuộc cách mạng bên trong thực tại của con người, nơi mà con người định cư bên trong chính mình. Thế rồi mọi thứ xung quanh cũng tự động biến đổi.
Đạo đức là xã hội; tôn giáo là cá nhân. Đạo đức là hành vi; tôn giáo là thực tại bên trong. Đạo đức là ngoại vi; tôn giáo là trung tâm. Đạo đức là tính cách; tôn giáo là tâm hồn. Tôn giáo không theo đuổi đạo đức mà đạo đức vẫn luôn theo sau tôn giáo. Thậm chí đạo đức không thể thành công trong việc tạo ra con người đạo đức, vậy thì làm cách nào nó có thể làm cho người đó thành mộ đạo? đạo đức bắt đầu với sự kìm nén, với việc chất đống mọi thứ vào chính mình, ngược lại tôn giáo bắt đầu với nhận biết.
Trong cuộc sống, chúng ta nhận ra điều xấu xa, ô uế và dối trá. Chúng ta phải tìm ra gốc rễ của nó. Làm cách nào mà điều xấu xa sinh ra và sinh ra ở đâu? Trung tâm - tạo ra những sự độc hại và những hành vi nham hiểm của con người - ở đâu? Thậm chí khi con người nghĩ về đạo đức, về điều thiện, tại sao điều xấu xa lại tống khứ tất cả những ý nghĩ đó đi và nhận chìm con người xuống vực, bao vây cuộc sống của họ, thấm vào tư cách đạo đức của họ? Tại sao nỗi đam mê dục vọng luôn chuyên chở những ý nghĩ của con người?
Chúng ta phải quan sát và tìm ra điều này vì chính chúng ta. Những kết luận vay mượn từ người khác là vô dụng, bởi vì trong quá trình quan sát, trong quá trình tự-quan sát, và bằng một mình sự quan sát này, năng lượng vào sức mạnh nhằm phá hủy và làm tan rã ngọn nguồn của điều xấu xa được phát ra. Chính sự quan sát không ngừng này là Sadhana, bởi vì đó không chỉ là phương pháp nhận ra điều xấu xa mà còn là sự loại bỏ nó. Bằng việc quan sát cái "Tôi" bên trong, bằng việc trở nên thức tỉnh và quan sát trực tiếp, ánh sáng xuất hiện và bóng tối ngừng ở bên trong. Và ánh sáng này không những rọi sáng ngọn nguồn tư cách đạo đức con người mà nó còn bắt đầu biến đổi chúng.
Chúng ta luôn mang câu châm ngôn này trong tâm trí: quan sát không chỉ mang đến sự nhận biết mà nó còn là sự biến đổi. Thực tế, quan sát mang đến sự nhận biết và nhận biết gây ra sự biến đổi. Chính nhận biết là sự biến đổi, sự biến đổi là toàn bộ tồn tại của con người. Giống như đào đất lên để xác định rễ của cây và phơi chúng ra ánh sáng. Điều này không chỉ cho phép tôi biết rễ mà bằng việc mang rễ ra khỏi bóng tối, bằng việc tách chúng ra khỏi đất, tôi có thể hủy hoại chúng. Trong khi tôi đang duy trì sự quan sát rễ cây, các cành của nó sẽ bị khô, héo.
Quan sát có thể gây ra sự hủy hoại gốc rễ của đam mê. Chúng không thể chịu đựng ánh sáng. Điều xấu xa không thể chịu đựng được sự nhận biết. Khi Socrates nói, "Nhận biết là đức tính tốt", ông ấy gần như muốn truyền đạt điều quan trọng này. Tôi cũng nói điều quan trọng tương tự: nhận biết là đức tính tốt; ngu dốt là xấu xa. Ánh sáng là đạo đức; bóng tối là đồi bại.
Quan sát, liên tục quan sát chính mình, quan sát khuynh hướng vô thức của tâm trí, đánh thức sự thức tỉnh và cho phép nó thấm vào tâm trí vô thức. Vô thức thâm nhập vào ý thức thông qua ô cửa của ngẩn ngơ, ảo tưởng, say xỉn, và vô thức có khả năng chế ngự nó. Chúng ta đã nhìn thấy những khuyn hướng nhục dục vì sự quyến luyến. Sự giận dữ và thói dâm ô chộp lấy chúng ta chỉ khi chúng ta vô thức, và thế rồi chúng ta tìm kiếm những chất gây say để giúp thỏa mãn bản năng thú tính của chúng ta.
Ý thức thâm nhập vào tâm trí vô thức bằng việc vượt qua trạng thái ngẩn ngơ, sự cẩn trọng, sự quan sát và nhận biết, và nó thiết lập quyền lực ở đó. Để sự quan sát và nhận biết phát triển trong chúng ta, để phát triển sự lưu tâm đúng, để quan sát những khuynh hướng, những hành động, những ham muốn trong chúng ta, sự tỉnh táo của chúng ta cũng phải tràn đầy ở mức độ tương ứng. Những động cơ ham muốn mù quáng, những bốc đồng vô thức biến mất, bởi vì chúng chỉ có thể tồn tại trong điều kiện mơ ngủ, không cảm giác và ảo tưởng. Chúng không thể tồn tại trong trạng thái tỉnh táo.
Hãy ghi nhận trong tâm trí rằng, không có ai thực hiện bất kỳ điều gì sai một khi các giác quan của họ là đúng, là tỉnh táo. Mọi tội lỗi sinh ra bởi sự dính líu, bởi quyến luyến. Nó chính là sự dính líu. Với tâm trí tôi, chỉ một mình quyến luyến cũng là tội lỗi. Quan sát sẽ xua đi quyến luyến. Vì vậy, việc nhìn xem quan sát là gì và làm cách nào để nó xảy ra là điều quan trọng với bạn.
Vậy thì tự-quan sát là gì? Tôi ngồi yên lặng, như tôi đã giải thích ngày hôm qua khi tôi nói về thử nghiệm lưu tâm đúng, tôi quan sát bất kỳ điều gì xuất hiện trong tôi. Có thế giới của nghĩ và ham muốn bên trong. Tôi quan sát thế giới đó. Tôi duy trì việc nhìn nó như con người đứng trên bờ nhìn những con song biển. Krishnamurti gọi đó là “Nhận biết không lựa chọn”. Đó là quan sát hoàn toàn vô tư.
Vô tư có nghĩa là tôi không lựa chọn hoặc quyết định. Tôi không gán cho bất kỳ ham muốn hoặc ước mong nào là tốt hay xấu. Tôi không đưa ra bất kỳ phán xét nào giữa thiện và ác, giữa đức hạnh và đồi bại. Tôi chỉ đơn giản là quan sát. Tôi chỉ đơn giản là trở thành người chứng kiến, đứng xa và tách biệt, cứ như tôi không có sự quan tâm nào khác ngoài nhận biết và quan sát. Tại thời điểm mà mục đích lẻn vào, tại thời điểm mà lựa chọn và phán xét xuất hiện thì quan sát kết thúc. Thế thì tôi đang không quan sát, thế thì tôi bắt đầu nghĩ.

Xin hãy cố hiểu sự khác nhau giữa nghĩ và quan sát. Theo cách thức này, chúng ta không là nghĩ. Nghĩ là hành động tỉnh táo bên trong tỉnh táo, trong khi quan sát là sự xuyên thấm vô thức bởi ý thức. Ngay khi nghĩ xuất hiện, con người bắt đầu tạo ra sự phân biệt giữa thiện và ác, bắt đầu sự kìm nén một cách tinh tế. Và bởi vậy vô thức đóng những ô cửa của nó, và sự nhận biết của chúng ta về những điều huyền bí của nó bị che khuất. Vô thức tiết lộ bí mật của nó không phải đối với nghĩ mà đối với quan sát, bởi vì khi vắng mặt sự kìm nén thì những thôi thúc, những xu hướng vô thức xuất hiện một cách tự nhiên, trong toàn bộ sự trần trụi và trong thực tại chúng, thế rồi không cần thiết phải che dấu những thôi thúc, những xu hướng và những đam mê. Vô thức trước mặt chúng ta trong trần trụi, hoàn toàn trơ trụi. Điều đó gây ra nỗi khiếp sợ! khiếp sợ làm sao khi con người nhìn thấy dạng trần trụi định cơ sâu bên trong bản thể mình! Họ cảm thấy muốn nhắm mắt lại. Họ cảm thấy muốn bỏ sự quan sát sâu lắng này và quay trở về với thế giới trần tục.
Đây là thời điểm khi mà sự dũng cảm và điềm tĩnh của con người được thử thách. Tôi muốn nói đây là thời điểm của sự chuộc lỗi. Những người vượt qua thời điểm này với lòng can đảm và điềm tĩnh sẽ trở thành những người thầy nhận biết, và điều huyền bí tuyệt diệu sẽ mở ra trước mắt họ. Họ phải nhìn thẳng vào gốc rễ của ham muốn, và họ phải vào chính trung tâm của vô thức. Và sự thâm nhập này mang đến cho họ một dạng tự do siêu nhiên.
Từ thiền tới quan sát, từ quan sát tới nhận biết, từ nhận biết tới tự do - đây là con đường. Đây là con đường của tôn giáo, của yoga. Tôi muốn bạn hiểu con đường này và bước trên đó. Thế rồi bạn sẽ biết thuật giả kim của chuyển hóa được tiến hành bởi cuộc cách mạng bên trong. Thế rồi bạn sẽ nhận ra tôn giáo đó - không phải đạo đức - mà là nền tảng về sự đạo đức tuôn chảy từ tôn giáo đó. Thực hành Sadhana không phải đạo đức mà là nền tảng về sự đạo đức tuôn chảy từ tôn giáo đó. Thực hành Sadhana không phải đạo đức mà là tôn giáo. Nếu điều này trở nên rõ ràng với bạn thì bạn sẽ nhìn thấy sự thật vô cùng tuyệt vời, và ảo ảnh sẽ biến mất.
Tôi nhìn vào sự chuyển hóa của con người từ quan điểm cách mạng bên trong, từ sự thâm nhập vô thức bởi ý thức này. Trên cơ sở nhận biết này mà con người mới có thể xuất hiện trong thực tại, nền tảng của nền văn hóa mới và nhân tính mới có thể được xác định. Con người như vậy đã được đánh thức bởi tự-nhận biết, đó là đạo đức tự nhiên. Người đó không phải nuôi dưỡng đạo đức. Đó không phải là kết quả của những hành động, hoặc những cố gắng của họ. Nó phát ra từ họ như ánh sáng phát ra từ ngọn đèn. Tư cách đạo đức của họ không dựa trên sự đối nghịch đối với tâm trí vô thức, nó xuất hiện bởi tràn đầy thực tại bên trong. Họ thực hiện mọi điều với toàn bộ thực tại đó. Không có lưỡng cực hoặc không có đa cực bên trong họ mà chỉ là sự hợp nhất. Con người như vậy hòa hợp toàn bộ; con người như vậy tự do khỏi lưỡng cực.
Âm nhạc thần thánh con người nghe được, khi họ ra khỏi mọi xung đột và xiềng xích, không phải của thế gian hay của không gian này. Có bản giao hưởng vượt thời gian, bản giao hưởng phúc lạc, dội vào chúng ta tại thời khắc tĩnh tại, trong trắng và tự do khỏi bất hòa. Giai điệu âm nhạc tuyệt vời này mang con người đến với vô hạn.
Với tôi, đây là sự nhận biết Thượng Đế.
Xem tiếp Chương 5Quay về Mục lục

Chương 3 - Buổi tối đầu tiên

Osho - Con đường hoàn hảo
Chương 3 - Buổi tối đầu tiên



4 tháng 6 năm 1964, buổi tối
Người hỏi thứ nhất: Có sự xung đột giữa tôn giáo và khoa học không?
Không. Kiến thức của khoa học là không đầy đủ. Giống như ánh sáng tràn ngập trên khắp thế gian trong khi chính nhà bạn lại chỉ có bóng tối. Với kiến thức không hoàn chỉnh như vậy, không có kiến thức về thực tại con người thì cuộc đời chỉ đơn giản là quay về đau khổ. Cuộc đời nên được ban thưởng bởi hòa bình. Mãn nguyện, thỏa mãn và chỉ biết những vấn đề vật chất là không đủ. Đó là cách con người tìm ra sự thành công, nhưng như thế là không đủ. Đó là cách con người có thể có nhiều tài sản, nhưng sẽ không có ánh sáng. Và không nhận biết, không ánh sáng, thì tài sản sẽ trở thành nô lệ, việc tạo ra sự sở hữu vật chất đó chính là tạo ra thòng lọng cho riêng mình.
Con người chỉ biết thế giới bên ngoài là không hoàn hảo, và sự không hoàn  hảo đó sẽ dẫn đến đau khổ. Bằng việc biết thế gian bên ngoài, con người đạt được sức mạnh. Khoa học là sự tìm kiếm kiến thức và sức mạnh. Khoa học đã không trao những chìa khóa bí mật về sức mạnh vô hạn vào tay loài người? Không có gì đáng giá xuất hiện từ sự đạt được của sức mạnh này. Không nghi ngờ gì nữa, con người có sức mạnh nhưng lại không có hòa bình trong tay. Bằng việc nhận biết Thượng đế thì phải có hòa bình chứ không phải là những vấn đề vật chất. Sự tìm kiếm Thượng đế này là tôn giáo.
Sức mạnh mà không có hòa bình thì lại trở thành sự tự hủy diệt. Kiến thức về những vấn đề vật chất mà không có kiến thức về bản thể ta thì có nghĩa sức mạnh nằm trong tay những kẻ ngốc. Không có điều gì tốt đẹp xuất hiện từ đó. Cho đến bây giờ, sự xung đột giữa khoa học và tôn giáo đã tạo ra những hậu quả thảm khốc. Những người chỉ nghiên cứu về lĩnh vực khoa học đã trở nên đầy quyền lực, nhưng họ không có hạnh phúc và không được thảnh thơi. Những người chỉ tìm kiếm tôn giáo, không thể nghi ngờ rằng, họ đã đạt được hòa bình nhưng họ là những người nghèo nàn và yếu thế. Cho đến bây giờ, Sadhana, sự tìm kiếm đã được thực hiện là không hoàn chỉnh, còn dở dang. Sự thật là, cho đến bây giờ, chưa bao giờ có Sadhana đầy đủ và hoàn thiện.
Tôi muốn nhìn thấy sức mạnh và hòa bình trong sự hoàn hảo của chúng. Tôi muốn sự tổng hợp, sự hòa hợp của tôn giáo và khoa học. Điều này sẽ sinh ra cá thể hoàn hảo, văn hóa hoàn hảo, những người giàu có về những giá trị bên trong và về những thành tựu bên ngoài. Cá thể không phải cơ thể hoặc không phải linh hồn mà là sự tổng hợp cả hai. Do vậy mà bất kỳ điều gì dựa trên duy nhất một trong hai điều này đều là không hoàn thiện.
Người hỏi thứ hai: Quan niệm của thầy về việc buông bỏ cuộc sống trần tục là gì? có phải sannyas chỉ có thể trở thành người tìm kiếm nếu người đó buông bỏ thế gian?
Không có sự xung đột giữa thế gian và sannyas. Không phải vì thế gian ngu dốt đến mức con người phải buông bỏ. Buông bỏ thế gian không phải là sannyas. Sự thức tỉnh của nhận biết, của tự nhận biết là sannyas. Sự thức tỉnh này dẫn đến việc buông bỏ, không phải với thế gian, mà là sự quyến luyến với nó. Thế gian vẫn ở nơi nó là vậy, và khi nó vẫn là vậy thì chúng ta được biến đổi. Quan điểm của chúng ta biến đổi. Sự biến đổi này là rất nền tảng. Trong trạng thái thức tỉnh này, chúng ta không phải buông bỏ bất kỳ điều gì. Những gì là thừa và vô dụng sẽ tự động rơi rụng giống như trái chín rụng khỏi cây. Giống như bóng tối biến đi khi ánh sáng xuất hiện, ở buổi bình minh của nhận biết, những gì ô uế bị bỏ đi và những gì còn giữ lại là sannyas.
Sannyas không có gì liên quan với thế gian. Nó phải liên quan đến thực tại ta. Nó là sự tinh khiết của bản thể ta. Nó giống như là sự tinh tế hợp kim vàng.
Nhìn vào cuộc sống theo quan điểm tự-ngu dốt là luân hồi, là trần tục; nhìn cuộc đời theo quan điểm tự-nhận biết và sannyas. Do vậy, bất kỳ ở đâu ai đó nói với tôi rằng họ “đã lấy được” sannyas thì với tôi điều đó có vẻ là giả. Từ “lấy” sannyas này tạo ra ấn tượng nó như là hành động trái ngược chống lại thế gian. Có phải sannyas là một cái gì đó có thể lấy? Liệu ai đó có thể nói họ đã “lấy” được sự nhận biết? Liệu ai đó sẽ lấy được sự nhận biết giống như điều có giá trị? Lấy được sannyas thì không phải là sannyas thực. Bạn không thể chụp mặt nạ lên sự thật. Sự thật phải được đánh thức.
Sannyas được sinh ra. Nó xuất hiện thông qua sự nhận biết. Và trong khi sự nhận biết đó, chúng ta liên tục được chuyển hóa. Khi sự nhận biết của chúng ta chuyển hóa thì quan điểm của chúng ta cũng thay đổi, và thái độ của chúng ta cũng tự động biến đổi. Thế gian dừng ở nơi nó là vậy và sannyas dần được sinh ra bên trong chúng ta. Sannyas là sự nhận biết rằng “Mình không phải là cơ thể”; đó là nhận biết rằng “Mình là linh hồn”. Khi sự nhận biết này hé lộ thì sự ngu dốt và sự quyến luyến bị bỏ rơi. Thế gian có đó bên ngoài và nó sẽ vẫn tiếp tục có đó. Nhưng bên trong sẽ là sự vắng mặt của sự quyến luyến với thế gian. Nói cách khác, sẽ không có thế gian, không có luân hồi bên trong.
Cố bám với thế giới bên ngoài là sự ngu dốt và cố để từ bỏ nó cũng là ngu ngốc, bởi vì trong cả hai trạng thái này, bạn vẫn tiếp tục bị dính đến nó. Sự dính líu với thế gian và sự chán ghét nó đều là ngu dốt. Cả hai đều là mối liên hệ với thế gian. Sự vắng mặt của mối liên hệ này là tự do, tự do khỏi sự quyến luyến và ác cảm. Đó không chỉ là ác cảm hoặc chán ghét. Sự vắng mặt của quyến luyến và ác cảm này tôi gọi là sannyas.
Thông qua nhận biết mà đạt được tự do khỏi sự quyến luyến và ác cảm. Quyến luyến là một dạng của ngu dốt, và hành động phản ứng khi con người chán ngấy với sự quyến luyến thì lại là ác cảm. Sự phản ứng này cũng là ngu dốt. Trong trường hợp thứ nhất, con người lao thẳng tới; trong trường hợp thứ hai, con người bỏ chạy ngược lại. Trong cả hai trường hợp người đó đều chạy đua. Nhưng ở chừng mực nào đó, người đó biết rằng, niềm vui được cất giữ trân trọng bên trong chúng ta không phải là sự đạt được bởi việc chạy trên thế gian, hoặc bởi việc bỏ chạy khỏi nó, và bởi việc được cư ngụ chắc chắn bên trong bản thể ta. Chúng ta không phải đến với thế gian và cũng không phải chạy khỏi đó. Chúng ta phải di chuyển bên trong, tới thực tại thực sự của chúng ta. Nên nhớ, chúng ta phải di chuyển vào trong thực tại chúng ta. Việc hướng vào bên trong cùng với sự gắn bó hoặc cùng với ác cảm là điều không thể. Điều đó là có thể chỉ nếu con người trở thành chứng kiến đối với xung đột cố hữu và gắn kết và ghét bỏ. Chỉ có một điều duy nhất tồn tại bên trong chúng ta, đó là người chứng kiến đối với cả hai: gắn bó và ghét bỏ. Chúng ta phải biết người đó, người đó chỉ đơn giản là sự chứng kiến. Bằng việc biết người đó, chúng ta đạt được tự do một cách tự động từ cả hai: gắn bó và ghét bỏ. Việc biết người đó là kết quả tự nhiên của tự-nhận biết.

Người hỏi thứ ba: Thầy có nghĩ rằng việc từ bỏ tổ ấm và gia đình là vô dụng không?
Tôi nhớ lại câu châm ngôn của Mahavira. Ông ấy nói, “Quyến luyến là sở hữu”. Ông ấy không nói rằng sở hữu là quyến luyến. Tại sao? Bởi vì sự ngu dốt của chúng ta, bởi vì sự ngây ngô của chúng ta, chúng ta dính líu với những thứ trần tục. Bên trong chúng ta là trống rỗng, vì vậy chúng ta muốn tự trám đầy bởi những thứ bên ngoài để tự lừa dối chúng ta bằng việc tin rằng, chúng ta là những thực thể quan trọng. Nếu con người từ bỏ sự quyến luyến dưới những điều kiện như vậy, và sự ngu dốt vẫn giữ nguyên thì liệu người đó có thể trút bỏ ám ảnh về sự quyến luyến không? Con người sẽ trút bỏ nhiều điều nhưng không thể trút bỏ sự quyến luyến. Nó sẽ vẫn còn đó.
Nếu con người bỏ lại tổ ấm để đến ashram thì sự quyến luyến đối với ashram sẽ thay thế cho sự quyến luyến với tổ ấm của họ. Nếu con người rời bỏ gia đình để gia nhập giáo phái thì người đó sẽ gắn bó với giáo phái như đã từng gắn bó với gia đình mình. Gắn bó ở bên trong nhưng nó sẽ tự biểu lộ dưới bất kỳ điều kiện mới nào. Do vậy những người biết đã khuyên từ bỏ ước mong và sự ngu dốt chứ không phải là từ bỏ những mục tiêu vật chất. Một lúc nào đó, sự nhận biết sẽ cho thấy những điều vô dụng thì lúc đó không cần phải từ bỏ mà chúng sẽ tự động bị bỏ lại.
Người hỏi thứ tư: Chúng ta có nên tập trung tâm trí của chúng ta nhằm đạt được vô nghĩ?
Tôi không yêu cầu bạn tập trung chú ý. Tập trung chú ý là một dạng ép buộc, là một dạng căng thẳng. Nếu con người tập trung vào ý tưởng nào đó, vào hình dạng nào đó, vào hình ảnh nào đó, hoặc vào câu nói nào đó, thì nó sẽ không dẫn bạn tới vô nghĩ, hoặc không thức tỉnh ý thức mà dẫn tới trạng thái vô thức của ngẩn ngơ tâm thần. Nó giống như là tự thôi miên. Ép buộc tập trung chú ý dẫn đến vô thức. Và đó là sai lầm khi nhầm lẫn vô thức thành samadhi. Samadhi không phải là trạng thái của vô thức hoặc không phải là trạng thái của ngẩn ngơ, samadhi là sự nhận biết tâm thức hoàn hảo. Samadhi là sự kết hợp của vô nghĩ và tâm thức hoàn hảo.
Người hỏi thứ năm: Làm cách nào chúng ta quan sát quá trình hít vào và thở ra trong thiền?
Giữ cho xương sống thẳng đứng. Không được phép cong xuống. Cơ thể ở trong trạng thái cân bằng tự nhiên khi xương sống vẫn giữ thẳng đứng. Ở tư thế đó, lực hút của trái đất ảnh hưởng không nhiều lên cơ thể, và cũng dễ dàng thoát khỏi sức hút của nó. Khi lực hấp dẫn ở giá trị cực tiểu thì cơ thể không liên quan đến việc trở nên trống rỗng của con người và của những ý nghĩ. Giữ cho xương sống thẳng đứng, nhưng cơ thể không căng thẳng hoặc căng cứng. Cho phép cơ thể thư giãn cứ như nó đang bị treo trên xương sống giống như cái áo treo trên mắc. Thư giãn cơ thể hoàn toàn, sau đó thở chậm và sâu. Hít vào và thở ra sẽ làm chuyển động trung tâm rốn. Tiếp tục quan sát quá trình này. Không cần thiết phải tập trung chú ý vào nó, chỉ quan sát. Hãy là người quan sát quá trình. Hình thành trong tâm trí rằng, ta không tán thành việc tập trung chú ý. Ta chỉ đơn giản là sự quan sát và nhận biết. Hãy thở như trẻ con thở - ngực của chúng không chuyển động; dạ dày chuyển động. Đây là quá trình tự nhiên của hít vào và thở ra. Kết quả của việc thở tự nhiên này sẽ là, trạng thái tĩnh tại sẽ hạ xuống chúng ta, chúng ta trở nên ngày càng sâu sắc hơn.
Vì sự quấy nhiễu và điều kiện căng thẳng của tâm trí mà chúng ta dần bị mất khả năng thở sâu và đầy. Vào thời kỳ chúng ta trưởng thành như thanh niên, việc thở nhân tạo và hời hợt đã trở thành thói quen. Bạn đã lưu ý một cách không nghi ngờ rằng, tâm trí bạn càng bị quấy nhiễu thì việc thở tự nhiên và có nhịp điệu ngày càng ít đi. Thở theo cách tự nhiên - nhịp nhàng, không nỗ lực. Sự hòa hợp của việc thở tự nhiên giúp xua tan căng thẳng tinh thần.
Người hỏi thứ sáu: Tại sao thầy khuyên chúng tôi quan sát quá trình thở?
Tôi làm như vậy bởi vì quá trình thở, quá trình vào và ra và là cầu nối giữa cơ thể và linh hồn. Linh hồn cư ngụ bên trong cơ thể thông qua thở và vì thở. Bằng việc trở nên nhận biết hơi thở, bằng việc nhận biết trực tiếp hơi thở, dần dần con người trải nghiệm rằng họ không là cơ thể nữa.
Tôi là cơ thể nhưng không phải là một mình cơ thể. Nó là nơi trú ngụ của tôi nhưng không phải là nền tảng của tôi. Khi sự nhận biết hơi thở sâu sắc hơn thì con người trải nghiệm được sự hiện diện, trạng thái gần gũi của con người mà người đó không phải là cơ thể. Trong khoảnh khắc, con người nhận thấy rõ ràng rằng, bản thể ta không phải là cơ thể. Thế rồi bạn sẽ nhìn thấy ba lớp, ba vỏ bọc của cá nhân bạn - cơ thể, hơi thở và linh hồn. Cơ thể là lớp vỏ; hơi thở là cây cầu, là mắt xích liên kết; linh hồn, bản thể, là nền tảng.
Vai trò của thở trong hành trình tự nhận biết là quan trọng nhất bởi vì thở là điểm trung tâm. Về mặt này chúng ta là cơ thể; về mặt khác là linh hồn. Chúng ta thực sự tồn tại ở mức vật lý, nhưng những gì chúng ta khao khát thì lại là bên trong địa hạt của linh hồn. Nhưng trước khi điều này có thể được thực hiện, vấn đề cốt lõi là phải di chuyển vào trạng thái của prana, của thở. Chỉ khi đó con người mới có thể đi vào vương quốc của tâm linh.
Quan sát mức độ của thở, con người có thể nhìn cả hai hướng. Từ đây, những con đường dẫn tới cơ thể và tới linh hồn trở nên rõ ràng. Mặc dù con đường là duy nhất và như nhau, nhưng hai hướng là rõ rệt. Và kết quả là bước chân - tới thẳng bên trong, tới thẳng địa hạt củ alinh hồn - trở nên nhiều khả năng hơn. Bây giờ tôi hy vọng rằng bạn hiểu tại sao tôi quá nhấn mạnh ý nghĩa của thở.

Người hỏi thứ bảy: Tại sao thầy nói rằng dhyana, thiền là không-hoạt động? Có phải nó cũng không phải là hành động?
Xin vui lòng nhìn vào đây. Bàn tay tôi nắm lại. Để nắm tay mình tôi phải tạo ra hành động chủ động. Nắm tay là hành động. Nhưng khi tôi ước ao mở nó, tôi phải làm gì? tôi không phải làm bất kỳ điều gì để mở nó. Nếu tôi chỉ đơn giản là bỏ rơi nỗ lực nắm tay thì nó sẽ tự động mở, và bàn tay sẽ trở lại trạng thái tự nhiên bình thường của nó. Vì vậy tôi sẽ không gọi việc mở bàn tay là hành động. Đó là không-hành động, hoặc nếu bạn muốn, bạn có thể gọi đó là hành động thụ động. Nhưng điều đó cũng không có gì khác biệt; nó là như nhau. Tôi sẽ không lý lẽ về câu chữ. Xin vui lòng hiểu những gì tôi đang nói với bạn. Xin vui lòng hiểu ý nghĩa thực sự của nó.
Bằng việc gọi thiền là “không hành đông”, tôi mong muốn chỉ ra rằng, bạn không nên coi thiền là công việc hoặc hoạt động. Thiền là tự do khỏi những sự bận rộn như vậy. Nó là trạng thái tự nhiên, và bạn không thể thay đổi nó thành bất kỳ dạng nào của căng thẳng tinh thần. Nếu thiền trở thành sự căng thẳng tinh thần thì nó sẽ không dẫn bạn tới trạng thái tự nhiên của bạn, hoặc không tới sự tĩnh tại tinh thần. Căng thẳng là một dạng bồn chồn, không nghỉ ngơi, và nếu con người muốn đạt được tĩnh tại thì nên bắt đầu bằng việc trở nên yên lặng. Nếu không có tĩnh tại thì nên bắt đầu bằng việc trở nên yên lặng. Nếu không có tĩnh tại hoặc không có yên lặng ở giai đoạn đầu tiên thì chắc chắn sẽ không có ở giai đoạn cuối cùng. Giai đoạn cuối cùng chỉ là cực điểm của giai đoạn đầu tiên.
Tôi nhìn thấy mọi người đang đi đến những ngôi đền, và tôi nhìn thấy họ đang thờ cúng những phật của họ. Tôi cũng nhìn thấy họ đang ngồi thiền. Nhưng đối với tất cả họ, đó chỉ là hành động, là một dạng căng thẳng của không nghỉ ngơi, việc mong chờ rằng, tất cả những hành động này mang lại hoa thơm, quả ngọt của tĩnh tại là điều hoàn toàn điên rồ. Nếu bạn muốn tĩnh lặng, nếu bạn ước ao tĩnh tại thì điều cốt lõi là bạn bắt đầu trong bình lặng chính thời điểm này.
Tôi cũng muốn nói điều này với bạn: đừng tìm kiếm sự thật. Có bản ngã trong việc tìm kiếm và chính bản ngã là trở ngại. Hãy mất chính bạn. Hãy mất sự nhận dạng của bạn. Chỉ đơn giản dừng là bạn. Chỉ khi bản ngã dừng, cái “Tôi” dừng thì bạn mới thực sự nhìn thấy con người đó. Chỉ khi sự cảm nhận về bản ngã, về cái “Tôi” biến mất thì sự thật mới được nhìn thấy. Chỉ bằng việc mất chính mình thì con người mới đạt được thực tại họ. Giống như sự sống mới nảy lên từ hạt mầm chỉ khi hạt mầm vỡ ra và dừng là nó, chồi non của bât tử bật ra chỉ khi hạt mầm, cái “Tôi”, cái vỏ của linh hồn cũng bị vỡ ra và dừng là nó. Vui lòng nhớ câu châm ngôn: để đạt được bản thể mình bạn phải đừng là bạn. Sự bất tử có thể phải trả cái giá của cái chết. Giọt nước trở thành đại dương khi nó mất chính nó trong đại dương.
Bạn là linh hồn, nhưng nếu bạn tìm kiếm nó bên trong bạn thì bạn sẽ không tìm thấy gì ngoài nỗi ước mong. Toàn bộ các cuộc đời của chúng ta là ước mong - ước mong trở thành một cái gì đó, đạt được một cái gì đó. Mọi người muốn trở thành một người nào đó, đạt được một cái gì đó. Cuộc đua diễn ra ở mọi thời điểm trong nhiều cuộc đời chúng ta. Không ai muốn dừng lại ở nơi họ là vậy. Mọi người đều muốn ở nơi họ không là họ. Ước mong là sự không thỏa mãn một cách mơ hồ với những gì con người là, hoặc những gì con người có, và khát khao mù quáng về những gì không phải là con người, hoặc con người không có. Cuộc chạy đua điên rồ này không có điểm kết, bởi vì ngay khi con người có được một cái gì đó thì nó lại trở thành vô dụng, và sau đó ước mong lại bắt đầu chạy vòng quanh những gì mà con người không có.

Ước mong luôn luôn là điều không đạt được. Ước mong giống như đường chân trời. Bạn càng cố gắng tiếp cận với nó thì nó lại càng xa khỏi bạn. Bởi vì, đơn giản là đường chân trời không tồn tại. Nó chỉ là vẻ bề ngoài, là ảo ảnh. Nó không phải là thực. Nếu nó là thực thì hẳn nó gần tới bạn hơn khi bạn tiến gần tới nó hơn; nếu nó không phải là thực thì nó hẳn sẽ biến mất khi bạn tiếp cận nó. Nếu nó không phải là thực hoặc không thật, nếu nó chỉ là vẻ bề ngoài, là giấc mơ, là ảo ảnh, là điều bịa đặt của tưởng tượng, thì nó vẫn giữ nguyên khoảng cách như trước nó, dù bạn có cố gần nó đến mấy thì cũng không ích gì.
Không thật là đối nghịch của sự thật. Thế giới của ảo ảnh, của mây không phải là đối nghịch của sự thật mà là bề ngoài giả dối của nó, vỏ bọc của nó. Ước mong không phải là đối nghịch của linh hồn, của atman mà là bề ngoài giả dối, là vỏ bọc của nó. Nó là sương mù, là khói mờ che dấu bản thể chúng ta, che dấu thực tại chúng ta. Chúng ta đuổi theo những gì không phải là chúng ta, và hậu quả là, chúng ta không thể nhìn thấy những gì là chúng ta. Ước mong như là bức màn sương khói tấn công linh hồn, và vì điều này mà chúng ta không thể biết những linh hồn của chúng ta. Bởi vì chúng ta liên tục muốn trở thành một cái gì đó khác, nên chúng ta không thể nhận ra thực tại của chính mình.
Nếu cuộc đua, nếu ước mong trở thành một cái gì đó dừng lại, thậm chí chỉ trong thời điểm, thì con người đang tồn tại sẽ trở nên có đó - giống như mặt trời trở nên có đó nếu bầu trời quang mây, dù chỉ trong chốc lát. Sự vắng mặt của cuộc đua này tôi gọi là dhyana, là thiền. Với cảm giác kỳ diệu mà con người trải nghiệm trong khoảnh khắc, người đó thực sự biết đó là gì! vậy thì mọi điều mà con người chưa từng ước mong thì lại đạt được. Sự hiện hữu của linh hồn chính là sự thỏa mãn hoàn toàn ước mong, bởi ở đó không có ngu dốt.
Nghĩ là tín hiệu của ngu dốt. Trong nhận biết không có nghĩ; có cái nhìn trực tiếp. Con đường của nghĩ không bao giờ mang bạn đến nhận biết. Thức tỉnh, tự do khỏi nghĩ là ô cửa tới nhận biết. Nhận biết không phải là sự đạt được, nó là sự khám phá. Chúng ta không phải đạt được nó, chúng ta phải khám phá nó. Nó chưa từng hiện diện trong chúng ta. Chúng ta phải đào nó lên như đào giếng. Những mạch nước ngọt nằm sâu dưới lòng đất, sâu dưới đá. Ngay khi những thứ này được đào lên thì dòng nước sẽ phun trào.
Tôi nhìn thấy những ý nghĩ như những tảng đá đặt trên đường lò xo của nhận biết. Ngay khi chúng ta bị dời đi thì chúng ta sẽ có nguồn mạch nguyên vẹn của tâm thức. Đào giếng bên trong chính chúng ta. Dời bỏ những lớp của ý nghĩ bằng cái thuổng của thiền. Sự quan tâm đúng đắn và sự nhận biết không ngừng sẽ làm cho ý nghĩ chết. Tẩy nó khỏi tồn tại. Điều gì bạn sẽ biết thì sẽ là sự nhận biết. Nơi không có những ý nghĩ, nơi tâm thức không bị che khuất bởi sương mù của những ý nghĩ thì bạn sẽ tìm ra nhận biết.
Tôi đang không yêu cầu bạn đi vào trạng thái đơn độc. Tôi yêu cầu bạn tạo ra trạng thái đơn độc bên trong bạn. Chỉ mình sự thay đổi của nơi chốn sẽ không ích gì; sự thay đổi thái độ là cần thiết. Đó không phải là môi trường mà là thái độ tinh thần của chúng ta, đó là điểm trung tâm và quan trọng nhất. Con người có thể đi vào nơi cô quạnh, nhưng nếu không có trạng thái đơn độc bên trong thì họ sẽ bị bao vây bởi đám đông nơi ẩn dật của họ, bởi vì bên trong họ cũng có đám đông.
Nhưng những người bạn của tôi! đám đông không phải bên ngoài, nó ở bên trong bạn. Bạn bị bao vây bởi đám đông bên trong, thế thì làm cách nào thoát khỏi nó với sự giúp sức của đám đông bên ngoài? Bây giờ đám đông sẽ cùng bạn vào trạng thái đơn độc của bạn. Bỏ chạy khỏi đám đông là điều vô ích. Đám đông của những ước mong bên trong phải bị dỡ bỏ. Vì vậy mà đừng tìm kiếm sự đơn độc ở nơi nào đó khác. Hãy là đơn độc bên trong. Đừng đi vào ẩn dật mà tạo ra không ước mong bên trong. Tại thời điểm khi bạn nhận ra điều này, bình an, phúc lạc và nhập định sẽ thấm vào bạn. Và chính thời khắc của những thời điểm này, hoặc chưa bao giờ có thế giới bên ngoài nào. Mọi thứ đã ở bên trong bạn! Người sáng tạo và sự sáng tạo không tách biệt lẫn nhau. Chúng là trong một sự thật, duy nhất và như nhau. Điều đó hẳn phải là thời điểm quá phúc lạc đến mức nhà huyền môn của Upanishad đã kêu lên “Aham brahmasmi - ta là ngươi, người sáng tạo, ta là Thượng đế”.
Bụi bẩn của nhiều thời đại chất đống trong tâm trí chúng ta. Những tập tục cũ, những truyền thống cũ và những sự mê tín dị đoan đã bao phủ chúng ta, giống như ngôi nhà đổ nát và hoang tàn giăng đầy mạng nhện và là nơi trú ngụ ban đêm của bầy cú. Giống như vậy, chúng ta bị lèn đầy bởi những ý nghĩ vay mượn từ người khác. Những ý nghĩ vay mượn này về sự thật và về Thượng đế là những cản trở khủng khiếp. Chúng ngăn cản chúng ta nhận biết sự thật. Vì vậy, việc tìm kiếm bản thể, việc tìm kiếm đánh thức giấc ngủ của chúng ta, chưa bao giờ bắt đầu trong chúng ta.
Trước khi con người có thể tự nhận biết sự thật thì việc rũ bỏ kiến thức vay mượn từ những người khác là điều cần thiết. Đây không phải là sự nhận biết mà chỉ đơn giản là thông tin. Quét sạch tất cả những thông tin lấy từ người khác, lấy từ những truyền thống cũ, giống như bạn quét sạch bụi khỏi cái mũ của mình. Vậy thì bạn sẽ có cái nhìn rõ ràng và trong sáng, bức màn chắn giữa bạn và sự thật sẽ không còn đó nữa. Đám đông của những ý nghĩ đứng giữa chúng như bức tường.
Có sự khác biệt giữa hiểu biết về sự thật và nhận biết chính sự thật. Hiểu biết về sự thật là nô lệ đối với kiến thức vay mượn, kiến thức tê liệt; nhận biết chính sự thật là sự trải rộng tự do trong bầu trời của tự nhận biết. Con người có khả năng bay bổng; người khác cho bạn đôi cánh, đôi cánh đó đưa bạn tới Thượng đế.
Vì điều này mà tôi đang nói với bạn về sự trống rỗng, về sự rỗng không. Trống rỗng di dời gánh nặng của nghĩ. Giống như con người phải bỏ lại gánh nặng của mình trên cánh đồng trước khi leo lên núi, con người phải tự do khỏi gánh nặng của nghĩ trước khi thực hiện cuộc thám hiểm tới sự thật. Người leo núi càng ít hành trang thì họ càng có khả năng leo cao hơn. Cũng tương tự như vậy, con người muốn trèo lên đỉnh núi sự thật thì sự nhẹ gánh, sự trống rỗng của người đó sẽ tỷ lệ thuận với đỉnh cao. Những người khát khao cực đỉnh, khát khao siêu thực tại phải đạt tới sự trống rỗng tối thượng, nơi mà bản thể trở thành không-bản thể. Cực đỉnh hoàn hảo xuất hiện trong sâu sắc của trống rỗng, và âm nhạc của tồn tại xuất hiện bởi sự tĩnh lặng của không-tồn tại - vậy thì con người nhận ra chính niết bàn là sự nhận biết brahma, của người sáng tạo, của Thượng đế.
Kể từ lúc sự thật được biết đến, làm cách nào nó có thể được biết đến bởi nghĩ? Ý nghĩ cũng được biết đến. Nỗ lực là hoàn toàn ngớ ngẩn. Không có con đường nào dẫn từ biết tới không biết. Biết không thể mang chúng ta tới không biết. Đó là điều không thể hình dung. Đó là điều không thể. Việc biết chỉ có thể luẩn quẩn bên trong biết. Việc tôi nghĩ nhiều như thế nào trong địa hạt của biết cũng không thành vấn đề gì, không có khả năng ra bên ngoài nó hoặc di chuyển khỏi nó. Tôi sẽ dịch chuyển mà không nghi ngờ, nhưng chỉ loanh quanh bên trong, giống như con bò quay quanh bánh xe nước. Tôi sẽ chỉ quanh quẩn ở cùng một chỗ mà không nói tới bất kỳ đâu khác. Cho đến bây giờ không ai có thể đạt được sự thật bằng việc nghĩ., Những người đã tới đích, họ đã đến bằng một vài con đường khác. Tôi không cho rằng Mahavira, Lão Tử, Đức Phật hoặc Jesus là những nhà tư tưởng. Sự đạt được của họ không phải là kết quả của nghĩ. Vậy thì làm cách nào họ đạt được mục tiêu của mình? Không phải bằng việc bước một mình trên hành trình của nghĩ mà bằng việc thực hiện bước nhảy khỏi nó. Bạn không thể đạt tới địa hạt chưa biết bằng việc bước đi một mình trên con đường mòn của biết. Bạn phải rời khỏi con đường đó và thực hiện cú nhảy vào địa hạt chưa biết.
Xin hãy hiểu ý nghĩa của từ "nhảy". Hãy hiểu thấu đáo từ "nhảy". Bạn cũng phải thực hiện điều đó. Bạn đang ở tầm mức của nghĩ. Bạn đang dừng ở nghĩ, bạn đang sống trong nghĩ và bạn phải thực hiện cú nhảy từ đó vào địa hạt của vô nghĩ. Và phải nhảy vào không gian, nơi không có gì ngoài sự tĩnh lặng. Bạn phải thực hiện cú nhảy từ âm thanh ồn ào vào tĩnh lặng. Bạn nghĩ rằng sự nhảy này sẽ đưa bạn tới đó? bạn đang nghĩ về việc làm cách nào để thực hiện cú nhảy? không, một lúc nào đó bạn sẽ bị ràng buộc vào bánh xe của nghĩ và điều đó sẽ không đưa bạn tới đâu.
Đừng nghĩ - hãy thức giấc! quan sát quá trình nghĩ. Hãy nhìn cách nó luẩn quẩn trong những không gian hạn hẹp. Chỉ đơn giản là quan sát. Và trong khi bạn quan sát bạn sẽ nhận ra, ở một vài thời điểm thích hợp, bạn đã thực hiện bước nhảy mà không có bất kỳ nỗ lực nào, bạn đang trong độ sâu vô hạn của trống rỗng. Thời điểm bạn rời bến bờ của biết, bạn sẽ nhận ra con thuyền của mình đang căng buồm êm ả trên đại dương mênh mông của địa hạt chưa biết.
Căng buồm ra khơi, du hành trên đại dương của địa hạt chưa biết mới thích thú làm sao! làm sao tôi có thể mô tả điều này? sự bồn chồn không ngơi nghỉ của bạn không cho phép bạn nhìn thấy. Đôi mắt tràn đầy nước mắt không thể nhìn thấy. Và cho dù nó tràn đầy nước mắt của niềm vui hay nỗi buồn thì cũng không có gì khác biệt. Đôi mắt tràn đầy bởi bất kỳ điều gì thì cũng không thể nhìn thấy sự thật. Để nhìn thấy sự thật thì sự trống rỗng là cần thiết. Chỉ khi đôi mắt trong như gương thì mới có thể nhìn thấy con người là mọi thứ.
Tôi sẽ nói với bạn về sự kiện xuất hiện ở một ngôi làng. Một người nào đó đã hỏi tôi làm cách nào để tìm ra Thượng đế. Tôi trả lời bằng câu hỏi, liệu anh ta đã tìm ra chính mình chưa mà bây giờ lại đi tìm Thượng đế. Chúng ta muốn biết Thượng đế mà lại không biết chính chúng ta! thậm chí chúng ta không biết những gì gần chúng ta nhất! thực tại, tồn tại không gần chúng ta hơn chính bản thể ta - cho nên, đầu tiên sự ngu dốt phải bị túm lấy và đánh bại ở thời điểm này. Con người ngu dốt về bản thể thì không thể đạt được nhận biết ở bất kỳ mức độ nào.
Đầu tiên, ngọn lửa của nhận biết bắt đầu bùng cháy bên trong, bởi thực tại trong con người. Đó là hướng đông của nhận biết và mặt trời nhận biết đang mọc ở hướng đó. Nếu có bóng tối ở đó, vậy thì bạn có thể chắc chắn rằng, không thể có ánh sáng ở bất kỳ nơi nào khác. Hãy nhận biết chính mình chứ không nhận biết Thượng đế.
Con người là linh hồn bị che khuất bởi bản ngã. Và đây là sự ngu dốt. Linh hồn rũ bỏ khỏi bản ngã là Thượng đế. Và đây là sự nhận biết. Bạn sẽ tìm kiếm bản ngã mình ở đâu? bất kỳ hướng nào trong mười hướng cũng không tìm ra nơi nào. Nhưng có một hướng nữa, hướng thứ mười một. Bạn có biết hướng đó không? tôi sẽ chỉ cho bạn hướng này.
Chính bạn là hướng thứ mười một, và bạn có thể nhận ra hướng này nếu bạn đừng nhìn vào mười hướng khác. Hướng thứ mười một không giống mười hướng khác. Thực tế nó chưa bao giờ là hướng. Nó là vô-hướng, là phủ định của hướng. Nó đưa bạn tới nơi mà bạn chưa bao giờ rời khỏi. Nó chính là thực tại bạn, trạng thái tự nhiên của bạn. Tất cả mười hướng khác là bên ngoài. Thế gian là sự sáng tạo của chúng. Mười hướng là thế gian. Chúng là khoảng cách. Nhưng nếu con người biết tất cả những hướng này và di chuyển trong chúng thì chắc chắn sẽ là tách biệt khỏi chúng, chắc chắn là khác biệt với chúng - nếu không, họ không hteer biết chúng, hoặc không thể di chuyển giữa chúng. Người đó di chuyển và cùng thời gian đó người đó không di chuyển. Nếu người đó không tạo nên sự vững chắc bên trong thực tại của chính mình thì người đó không có khả năng di chuyển, bởi vì trung tâm của tất cả sự chuyển động của người đó không có sự chuyển động nào, bởi vì ở trung tâm bánh xe quay của người đó là sự bất động vững chãi. Bạn đã bao giờ chú ý đến những bánh xe của xe ngựa chưa? những bánh xe chỉ có khả năng chuyển động khi trục không chuyển động. Luôn có một cái gì đó cố định và duy trì cho bất kỳ sự chuyển động nào. Cuộc sống là không ổn định và phù du nhưng linh hồn thì lại ổn định và vĩnh cửu. Linh hồn là hướng thứ mười một . Con người không phải đi tới bất kỳ đâu để tìm kiếm nó.  Hãy bỏ rơi tất cả mọi sự tìm kiếm và nhìn thấy người đang định cư bên trong bạn. Hãy đánh thức con người chính là bạn. Đây là điều có thể thực hiện bởi việc từ bỏ sự tìm kiếm. Nếu chạy đua thì điều đó sẽ là không thể, nếu dừng lại thì điều đó lại là có thể.
Hãy dừng lại và nhìn. Hai từ này là then chốt của tôn giáo, là hướng dẫn về Sadhana của con người và toàn bộ chìa khóa của Yoga. Hãy dừng và nhìn, hướng thứ mười một mở ra trước bạn. Thông qua nó bạn đi vào không gian bên trong. Không gian bên trong này là linh hồn. Tôi nhìn thấy rằng tất cả các bạn đang chạy theo một cái gì đó, nhưng kết cục của những cuộc chạy đua này không là gì ngoài thất bại. Bạn không nhìn thấy mọi người thất bại hàng ngày sao? đó có phải là kết quả của những cuộc chạy đua không? Có phải tất cả mọi cuộc chạy đua đều dẫn tới cái chết không? Nếu con người biết sự thật này tại điểm khởi đầu thì sẽ tránh được thảm họa ở nơi kết thúc.
Tôi muốn bạn dừng lại và nhìn. Bạn sẽ thực hiện điều đó chứ? ở giữa cuộc đua điên khùng của mình, bạn có nghe thấy tiếng gọi của tôi? Hãy dừng và quan sát người đang chạy. Hãy dừng và quan sát người đang tìm kiếm. Hãy dừng và nhìn vào "Tôi", vào bản thể ta. Ngay khi cơn sốt của cuộc đua hạ xuống, tất cả mười hướng đều tan biến và chỉ còn lại một hướng, đó là không-hướng còn giữ lại. Nó mang bạn đến cội nguồn, nó bắt rễ vào suối nguồn nhận biết tối thượng.
Có một lần vị sadhu hỏi mọi người, họ giống gì trước khi họ sinh ra. Nếu bạn gặp vị sadhu đó, bạn sẽ nói gì với ông ta? Bạn có biết bạn giống gì trước khi bạn sinh ra không? Bạn có biết bạn sẽ giống gì sau cái chết của mình? Nếu bạn học cách dừng lại và quan sát, bạn có thể biết. Bạn có thể biết người trước khi sinh ra, người sau cái chết và người đang bên trong tại chính thời điểm này. Đó chỉ là vấn đề của nhìn quanh một chút. Hãy dừng lại và nhìn.
Tôi mời bạn du hành cùng tôi vào thế giới kỳ diệu này.
Hãy dừng lại và quan sát.