Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Showing posts with label Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại. Show all posts
Showing posts with label Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại. Show all posts

Chương 10: Ánh sáng thanh khiết, niềm vui thanh khiết

Osho - Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại
Chương 10: Ánh sáng thanh khiết, niềm vui thanh khiết


Osho yêu quý,
Cái chết tự nhiên là gì?
Đây là một câu hỏi thật ý nghĩa, nó chứa nhiều hàm ý! Ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất là chết mà không có tác nhân nào hết; chỉ đơn giản là già đi; rồi từ già đến chết không trải qua bệnh tật gì. Cái chết đơn giản là vì tuổi già - mọi thứ trong cơ thể bạn, trong não của bạn ngừng hoạt động. Đây là ý nghĩa thông thường và rõ ràng nhất của cái chết tự nhiên.
Tuy nhiên, đối với tôi, cái chết tự nhiên có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều: một người phải sống một cuộc đời tự nhiên để có được một cái chết tự nhiên. Cái chết tự nhiên là điểm cao nhất của một cuộc đời tự nhiên không bị ức chế, không bị kìm hãm - sống tự nhiên như chim muông, thú rừng, cây cỏ, không bị phân hóa... một cuộc đời buông xả, để tự nhiên đi qua bạn mà không gặp chướng ngại nào từ phía bạn, giống như bạn không có ở đó và cuộc đời cứ tự nó vận hành.
Thay vì bạn sống cuộc đời thì hãy để cuộc đời "sống" bạn, bạn là thứ cấp; khi đó cực điểm sẽ là cái chết tự nhiên. Theo định nghĩa của tôi, chỉ người nào thức tỉnh mới có thể chết một cái chết tự nhiên; còn tất cả những cái chết khác đều là phi tự nhiên, bởi họ đều đã sống phi tự nhiên rồi.
Làm sao sống một cuộc đời phi tự nhiên mà bạn có thể đến được với cái chết tự nhiên? Cái chết sẽ phản ánh đỉnh cao tối thượng của cuộc đời bạn. Nó cô đọng cả cuộc đời bạn. Vậy nên trên thế giới này có rất ít người chết được một cái chết tự nhiên. Những quy định của chúng ta không cho phép chúng ta sống tự nhiên.
Nhưng quy định của chúng ta, ngay từ đầu, đã dạy ta rằng ta phải vượt lên tự nhiên, rằng sống tự nhiên là giống loài vật; chúng ta phải là siêu nhiên. Và điều này có vẻ rất logic. Tất cả các tôn giáo đều rao giảng điều này - rằng là con người phải vượt lên tự nhiên - và hàng thế kỷ qua họ đã thuyết phục người ta rằng loài người phải vượt lên tự nhiên. Không ai thành công trong việc vượt lên tự nhiên cả. Tất cả thành công của họ chỉ là tàn phá tự nhiên đồng thời với vẻ đẹp và sự thơ ngây của mình.
Con người không cần vượt lên tự nhiên.
Tôi nói với các bạn, con người phải đáp ứng tự nhiên - điều mà không có loài vật nào có thể làm được. Đó là điểm khác biệt.
Các tôn giáo chỉ toàn lừa dối người ta. Họ phân biệt rạch ròi giữa con người và con vật: đã là con người thì phải siêu nhiên, chỉ có con vật mới tự nhiên. Không có loài vật nào biết nhịn ăn; bạn không thể thuyết phục chúng rằng nhịn ăn là một điều thiêng liêng được. Loài vật chỉ biết đói, và việc đói và nhịn ăn thì chả khác gì nhau cả. Bạn không thể thuyết phục được con vật nào chống lại tự nhiên được.
Điều này đã đem lại cơ hội cho cái gọi là những người tu hành, vì loài người có khả năng chí ít là chống lại tự nhiên. Loài người không bao giờ thắng được, nhưng loài người có khả năng chiến đấu. Và trong cuộc chiến thì loài người cũng không thể phá hủy được tự nhiên; họ chỉ tự tàn hại chính mình mà thôi.
Đó là cách mà bấy lâu con người vẫn tự hủy haọi mình - hủy hoại mọi sung sướng, mọi yêu thương, mọi cao quý của mình - và không đạt đến bậc cao hơn loài vật mà ngày càng xuống thấp hơn, trong mọi cách có thể. Có lẽ bạn chưa bao giờ nghĩ về điều này: không có loài vật nào trong tự nhiên lại đồng tính cả. Và cả thế giới loài vật sẽ phải cười lăn nếu chúng nghe được chuyện này. Đơn giản vì đó là điều ngớ ngẩn! Thế mà trong sở thú, chỗ nào không có con cái, loài vật lại bị đồng tính.
Ấy thế mà loài người đã biến thế giới này thành một sở thú: hàng triệu hàng triệu người biến thành đồng tính, đủ các loại cuồng dâm và loạn luân. Và ai chịu trách nhiệm cho chuyện này? Chính là những kẻ đang rao dạy bạn hãy vượt lên tự nhiên, để đạt được sự thần thánh siêu nhiên.
Người ta vẫn làm như thế, và đây chỉ là một ví dụ. Ở Ấn Độ, Mahavira quá gắn bó với lý tưởng phi bạo lực đến nỗi ngài cấm cả đệ tử của mình không được trồng trọt, làm vườn, vì nếu bạn trồng trọt bạn phải cắt tỉa cây cối... mà cây cối cũng có cuộc sống, và làm như vậy là bạo lực.
Đệ tử của ngài hầu hết xuất thân từ đẳng cấp võ sĩ, kshatriyas; bản thân ngài cũng là một chiến binh. Lúc bấy giờ họ không thể chiến đấu vì chiến đấu là bạo lực; họ không thể là người cày cấy vì cày cấy là bạo lực. Họ cũng không thể làm thầy vì đó là độc quyền của đẳng cấp bà-la-môn, brahmin, mà dòng dõi brahmin thì cha truyền con nối; bạn không thể gia nhập vào tầng lớp của họ được, dù bạn có thông thái đến đâu. Bạn có thể thông thái hơn bất kỳ một brahmin nào, nhưng bạn không thể làm thầy của người ta - đó là đặc quyền của dòng dõi brahmin. Vì thế mà những người chiến binh này không được đẳng cấp brahmin thừa nhận. Họ cũng không muốn rơi xuống đẳng cấp sudra, đẳng cấp tiện dân, làm nghề đóng giày, quét đường hay dọn nhà xí.
Vì thế con đường duy nhất cho họ là làm thương gia; không còn cách nào khác. Thế là tất cả những người Kỳ-na ở Ấn Độ đều trở thành thương nhân, và một hiện tượng lạ đã xảy ra: bản chất bạo lực của họ... bởi lẽ dù không chinh chiến nữa, không săn bắn nữa, không canh tác nữa thì họ vẫn là họ. Và họ chuyển bạo lực thành bóc lột: Họ không thể cắt cổ bạn nhưng họ có thể hút máu bạn. Và họ trở thành những người giàu có nhất nước, vì một lý do đơn giản là toàn bộ bạo lực của họ đã được dồn vào một thứ duy nhất, đó là đồng tiền.
Đây không phải là tiến hóa. Những người này không tiến bộ chút nào. Sự rao dạy về phi bạo lực không giúp họ tốt hơn mà làm họ ngày càng tệ hại hơn! Họ là những người tham lam nhất, vật chất nhất, mê tiền nhất; cả thế giới của họ chỉ có tiền là tiền, vì mọi con đường khác đã bị đóng cả rồi. Họ nói chuyện cũng về đồng tiền, họ nghĩ cũng về tiền, họ mơ cũng thấy tiền. Và họ dám làm bất cứ việc gì miễn là việc đó đem lại cho họ nhiều tiền.
Một khi bạn ép uổng điều gì thì kết quả sẽ không thể tốt đẹp hơn. Họ không biết yêu thương hơn; phi bạo lực có nghĩa là biết yêu thương và có lòng trắc ẩn. Họ chỉ biến thành thứ ngược lại. Họ không có lòng trắc ẩn, họ không có lòng tốt, không biết yêu thương.
Ở nhiều nơi khác, đối với nhiều tôn giáo khác, người ta vẫn cố đưa loài người vượt lên tự nhiên. Kết quả không gì hơn là sự thất bại. Bạn sinh ra là một sinh linh tự nhiên. Bạn không vượt lên bản thân mình được. Việc đó cũng giống như bạn cố nhấc mình lên khỏi mặt đất bằng cách kéo hai chân mình lên vậy. Bạn có thể sẽ bật lên chút đỉnh, nhưng sớm muộn gì bạn cũng sẽ ngã ra đất, và có thể còn bị gãy xương đâu đó. Bạn có bay được đâu kia chứ.
Và đó là điều người ta vẫn làm. Họ cố nâng mình lên cao hơn tự nhiên, nghĩa là cao hơn chính bản thân họ.
Họ không tách rời khỏi tự nhiên, nhưng ý niệm này đáp ứng cái tôi của họ: bạn không phải là động vật vậy nên bạn phải vượt lên tự nhiên; bạn không thể cư xử giống động vật được. Người ta thậm chí còn làm cho động vật cư xử không giống động vật; và họ nâng mình vượt lên tự nhiên được một chút.
Vào thời Victoria ở Anh quốc, người ta mặc quần áo cho chó khi dắt chúng đi dạo. Chó được mặc quần áo để khỏi trần trụi, để đỡ giống động vật. Những người này đang cố nâng chó của họ lên tầm cao hơn động vật một chút.
Hẳn bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng thời Victoria ở Anh, ngay cả chân ghế cũng được bọc lại - vì lý do đơn giản là chúng được gọi là chân, mà chân thì phải được che lại. Bertand Russell, người đã sống gần hết một thế kỷ - một cuộc đời dài - còn nhớ ngày bé chỉ cần nhìn thấy bàn chân trần của phụ nữ thôi cũng đủ làm ông rạo rực. Các bộ váy được thiết kế sao cho che được toàn bộ bàn chân; bạn không thể nhìn thấy bàn chân phụ nữ khi họ mặc váy.
Mới một trăm năm trước thôi người ta thậm chí còn tin rằng phụ nữ thuộc hoàng tộc không có hai chân. Hoàng tộc phải có gì đó khác với thường dân, và chưa ai từng trông thấy - vì không bao giờ có cơ hội nào để thấy được - liệu chân họ có tách thành hai chân hay không.
Tuy nhiên, những người thuộc hoàng tộc cũng chẳng buồn làm rõ chuyện này rằng: "Thật ngớ ngẩn, chúng ta cũng là người như các ngươi thôi". Cái tôi đã ngăn không cho họ nói ra điều đó. Nếu người ta đặt họ lên một bậc cao hơn, thế thì việc gì phải bận tâm? - cứ là hoàng tộc vậy thôi. Đó chính là một trong những lý do vì sao hoàng gia không cho phép bất kỳ ai, một người thường dân nào, kết hôn với thành viên trong hoàng tộc, vì có thể người đó sẽ phơi bày toàn bộ chuyện này: "Những người này cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người khác; họ chẳng có gì đáng gọi là dòng máu hoàng tộc cả". Thế nhưng hàng thế kỷ qua người ta vẫn giữ quan niệm này.
Tôi cũng muốn các bạn khác với loài vật, nhưng không phải theo cách vượt lên tự nhiên - không phải theo cách đó. Bạn có thể đi thật sâu vào tự nhiên, bạn có thể sống tự nhiên hơn cả loài vật. Chúng không tự do, chúng đang chìm sâu trong cơn mê; chúng không thể làm gì khác hơn những gì tổ tiên chúng đã làm hàng triệu năm qua.
Bạn có thể sống tự nhiên hơn cả loài vật. Bạn có thể xuống đến vực thẳm không đáy của tự nhiên, bạn có thể lên tới đỉnh cao nhất của tự nhiên, nhưng dù thế nào đi nữa bạn cũng sẽ không thể vượt qua tự nhiên được. Bạn sẽ sống tự nhiên hơn, bạn sẽ sống tự nhiên với nhiều phương diện hơn.
Đối với tôi người tu hành không phải là người vượt qua tự nhiên mà là người hoàn toàn thuận theo tự nhiên, người đã khám phá tự nhiên ở mọi góc cạnh của nó, người không bỏ sót một điều gì tự nhiên.
Động vật là loài bị nhốt tù; chúng chỉ có một khu vực sống nhất định. Loài người có khả năng, có trí khôn, có tự do để khám phá. Và nếu bạn đã khám phá hết tự nhiên, bạn trở về nhà. Tự nhiên là nhà của bạn. Và cái chết sẽ là một điều vui sướng, là một cuộc ăn mừng. Lúc đó bạn chết mà không phiền trách gì, bạn chết với lòng tri ân sâu sắc, vì cuộc đời đã cho bạn nhiều quá, còn cái chết chỉ đơn giản là đỉnh cao tối thượng trong tất cả những gì bạn đã sống.
Nó chỉ tựa như trước khi tắt ngọn nến bùng lên sáng nhất... con người tự nhiên, trước khi chết cũng sẽ sống đẹp đẽ nhất trong mọi thời khắc; anh ta chỉ còn là ánh sáng, là thực tại. Đối với tôi đó là cái chết tự nhiên.
Nhưng để có được cái chết đó người ta phải trả giá; bạn không được ban tặng điều đó. Bạn chỉ được ban tặng cơ hội, nhưng bạn phải tự mình khám phá, tự mình tìm kiếm, bạn phải xứng đáng thụ hưởng nó.
Thậm chí chỉ cần chứng kiến cái chết của một con người thực thụ, chỉ cần đứng gần bên người ấy khi người ấy hấp hối, bạn cũng sẽ cảm nhận tràn trề một niềm vui sướng kỳ lạ. Nước mắt của bạn không rơi vì buồn đau mà chúng là lòng biết ơn và nỗi sung sướng - vì khi một người đã chết tự nhiên, đã sống trọn cuộc đời mình, người đó sẽ tỏa sinh lực vào khắp tự nhiên. Những người có mặt và gần bên người ấy khi người ấy chết sẽ được tắm trong... sự sảng khoái bất chợt, một cơn gió, một hương thơm mới và một cảm giác mới rằng cái chết không phải là điều tồi tệ, rằng cái chết không đáng sợ, rằng cái chết là điều chúng ta phải gặt hái, phải xứng đáng với nó.
Tôi nói với các bạn nghệ thuật sống. Nhưng nó cũng chỉ có thể được gọi là nghệ thuật chết. Hai cái đó chỉ là một mà thôi.

Osho yêu quý,
Làm sao ta tránh được cái bẫy lý trí đặt ra khiến ta không bao giờ sướng vui trong khoảnh khắc, không để ta nhẫn nại, không để cho cỏ cây tự mọc. Lúc nào tôi cũng muốn đi nhanh hơn, muốn đẩy dòng chảy đi, và bỏ lỡ vẻ đẹp khi nó đưa tôi vào thời khắc của nó. Xin ông hãy nhận xét.
Đây là một trong những câu hỏi thường hằng. Phương Đông đã đến được rất gần với thực tại. Có những tôn giáo ra đời tại Ấn Độ và ngoài Ấn Độ; những tôn giáo ra đời ngoài Ấn Độ đều tin rằng con người chỉ có một kiếp sống - kéo dài khoảng 70 năm. Đương nhiên cuộc sống đó sẽ vội vã; người ta phải gấp gáp - cuộc sống ngắn ngủi mà có biết bao việc phải làm, biết bao điều phải trải nghiệm, khám phá. Chính vì thế mà tư duy của người phương Tây là tốc độ, họ muốn làm mọi việc càng nhanh càng tốt, do ý niệm của họ về một cuộc đời ngắn ngủi. Bạn không thể trách họ được.
Những tôn giáo ra đời ở Ấn Độ có một sự mở rộng vô cùng - hết kiếp này đến kiếp khác. Họ không cần vội vã, gấp rút. Thế nhưng loài người ngu muội đến nỗi khi giải quyết xong một vấn đề thì từ trong giải pháp đó lại nảy sinh hàng ngàn vấn đề khác. Ý niệm về nhiều kiếp sống thực sự đã giúp bạn thư thả: không cần vội vàng, sự bất diệt thuộc về bạn, vậy nên đừng có chạy, cứ đi như cuộc dạo chơi ban sớm - thư thái, an lạc.
Đó là ý tưởng của những người đưa ra quan niệm về sự tái sinh, nhưng người ta thay vì bước đi thư thái thì họ lại đâm ra biếng nhác. Họ nói: "Cần gì phải vội, vậy thì cần gì phải bước đi? Không bàn cãi chuyện chạy nữa, vậy thì cần gì cái chuyện đi bộ buổi sớm? Vĩnh hằng thuộc về bạn - bất cứ lúc nào bạn cũng có thể bước đi được cơ mà".
Phương Đông nghèo khó là vì vậy, vì người ta không phát triển được khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ là nhằm giúp mọi việc được thực hiện nhanh chóng hơn, để sản xuất hàng hóa ra nhanh hơn. Người ta vẫn cứ nghèo, đã nghèo lại càng nghèo. Họ có ý tưởng tốt, nhưng kết quả lại không được như thế.
Phương Tây thì ngược lại - họ quan niệm cuộc đời ngắn ngủi. Ý niệm này tạo ra sức căng và sự nóng vội, nhưng nó lại phát triển được khoa học công nghệ, sự giàu có, tiện nghi, xa hoa; nó tạo ra mọi thứ. Thế nhưng con người bên trong lại lạc lối, bởi họ cứ chạy mãi. Họ không bao giờ dừng lại nơi nào; lúc nào họ cũng muốn đi tìm một thứ khác. Và bạn không bao giờ đến được cái đích mà bạn có thể dừng chân. Thế nên ở phương Tây người ta tạo ra những phương tiện tốc độ, và họ đi rất nhanh. Nhưng bạn đừng hỏi họ rằng: "Anh đi đâu?". Đừng lãng phí thời gian của họ bằng câu hỏi ngốc nghếch ấy! Vấn đề là họ đi nhanh; không cần biết họ đang đi đâu và tại sao họ lại đi như vậy.
Cả hai quan niệm trên đều đã thất bại. Các tôn giáo phương Đông không giúp được gì; các tôn giáo phương Tây không giúp được gì. Cả hai đều cố đem đến cho bạn một quan niệm, nhưng họ chưa bao giờ cho bạn thấy ý nghĩa sự hiện tồn của chính bạn. Đây là điểm khác biệt giữa tôi và họ.
Chẳng hạn, vấn đề của bạn là bạn hiểu rằng: "Hãy thư thả và để cỏ cây tự mọc," nhưng bạn vẫn tiếp tục vội vã.
Không, như vậy là bạn không hiểu. Điều tiên quyết để bạn cần hiểu là bạn không hiểu ý nghĩa của việc để cỏ cây tự mọc. Nếu bạn hiểu điều đó thì mọi sự thúc đẩy, ép uổng đều sẽ biến mất. Tôi nói nó sẽ biến mất không có nghĩa là nó ngừng lại. Đối với mỗi người sẽ khác.
Nếu bạn hiểu ý nghĩa của việc cỏ cây tự mọc... cả vũ trụ bao la đang lặng lẽ, bình an vận hành; hàng triệu hệ mặt trời, hàng triệu ngôi sao vẫn di chuyển mỗi ngày, từ vĩnh hằng này đến vĩnh hằng khác... Nếu bạn hiểu rằng hiện hữu đang diễn ra chứ nó không hành động, thì nếu việc thúc ép là bản chất của bạn, bạn sẽ chấp nhận nó. Vấn đề không phải là dừng nó lại, vì nó lẽ lại tiếp diễn mà thôi. Đơn giản bạn chỉ cần hiểu rằng mọi vật đang diễn ra, rằng đó là cách bạn tồn tại: rằng bản chất của bạn là thúc đẩy. Lúc đó bạn sẽ hoàn toàn chấp nhận nó, và trong sự chấp nhận đó, sức căng sẽ biến mất.
Đối với một số người khác, việc thúc đẩy sẽ có thể biến mất - nếu đó không phải là bản chất của họ, nếu họ chỉ bắt chước, cạnh tranh với người khác và vì những người khác thúc đẩy nên họ cũng thúc đẩy, nó có thể ngừng được, nếu bạn hiểu rằng vạn vật đều diễn ra thôi, và bạn không nhất thiết phải bận tâm về chúng; bạn có thể lặng lẽ tận hưởng cách mà mọi vật diễn ra như thế. Bạn có thể dự phần mà không bận tâm khi sự nóng vội đến với bạn một cách tự nhiên; nhưng không vượt quá nó.
Vậy nên cùng một cách hiểu nhưng mỗi cá nhân sẽ đón nhận mọi việc khác nhau. Nếu thúc đẩy là bản chất của bạn thì chẳng có gì sai khác trong chuyện này cả. Hãy tận hưởng nó, hãy thúc đẩy nó bằng hết sức của bạn - nhưng hãy làm điều đó trong vui ca hân hoan và không lo lắng rằng mình đang thúc đẩy. Đây chính là bạn. Đây chính là cỏ cây của bạn và nó mọc theo cách đó.
Chỉ cần nhớ một điều là, làm việc gì bạn cũng phải làm trong niềm hân hoan, nỗi sướng vui - vậy là đủ. Mỗi người sẽ làm những việc khác nhau và thế giới cần như vậy. Đó chính là sự phong phú của thế giới: mọi thứ đều không giống nhau và không nên giống nhau. Nhưng chúng nên gặp nhau ở một điểm; và đó là tâm điểm của sự thư thái.
Ở Nhật Bản người ta đã làm ra nhiều thứ lạ lùng để phục vụ cho việc thiền định... Nhật Bản đã đóng góp rất nhiều cho nhân loại. Thiền định xuất phát từ Ấn Độ nhưng nó chỉ phát triển rất hạn chế - chỉ là ngồi tư thế hoa sen và theo dõi suy nghĩ của mình rồi tĩnh lặng. Thực ra nó có tác dụng nhưng ở Nhật Bản người ta đã thử rất nhiều cách thức, những cách thức lạ lùng: vừa đấu kiếm vừa thiền định. Hai kiếm sĩ ngay lúc chuẩn bị giết chết đấu thủ của mình vẫn phải giữ tập trung vào chính mình mà không căng thẳng, sợ hãi, tức giận hay trả thù, đó chỉ là một trò chơi mà thôi.
Đối với người xem thì đây là vấn đề giữa sống và chết, nhưng đối với hai hành giả thì đó chỉ là trò chơi. Và điều kỳ lạ xảy ra là: nếu cả hai hành giả đều thiền sâu như nhau thì sẽ không ai thắng cũng không ai bại. Thậm chí trước khi một người giơ kiếm chuẩn bị đâm vào người kia ở một điểm nào đó - thậm chí trước cả lúc người đó kịp làm điều đó - thì người kia đã nắm bắt được ý định của anh ta rồi, và đã sẵn sàng ra đòn phòng vệ.
Người ta không thể phân định thắng thua được. Thông thường, thật khó mà tưởng tượng được kiếm đạo lại đi thiền định, hiệp khí đạo và thiền định, bắn cung và thiền định, sumo và thiền định. Nhưng ở Nhật người ta đã thử ở mọi lĩnh vực có thể, và họ nhận ra rằng bạn làm gì đều không quan trọng; cái quan trọng là, bạn có tập trung không?
Nếu tập trung, bạn có thể làm được bất kỳ điều gì và nó sẽ không gây căng thẳng; bạn vẫn giữ được sự thư thái của mình.
Vậy nên đừng lo lắng về chuyện thúc đẩy. Hãy hiểu rằng chúng ta quá bé nhỏ trong vũ trụ bao la này; dù ta có làm gì hay không làm gì thì cũng chẳng thay đổi được hiện hữu. Ta không nên nghiêm trọng hóa nó. Tôi không sinh ra thì hiện hữu vẫn vậy; tôi không còn trên cõi đời này nữa thì hiện hữu vẫn vậy. Tôi không nên nghiệm trọng hóa bản thân mình.
Đây là hiểu biết cơ bản của một người hành thiền - rằng không được coi mình là quan trọng. Khi đó tự động sự thanh thản sẽ đến. Và với sự thanh thản, những gì là tự nhiên đối với bạn sẽ tiếp tục, những gì phi tự nhiên tự nó sẽ ra đi.

Osho yêu quý,
Vấn đề của một người hành thiền trước đây là "Làm thế nào để hòa nhập vào thế giới mà không thuộc về nó?". Từ khi rũ áo đi tu, nhiều người trong chúng tôi đã quay lại với thế giới, nhưng chúng tôi cảm thấy mình như người ngoài hành tinh, khác biệt và không thuộc về thế giới này. Dường như vấn đề của chúng tôi bây giờ là "Làm thế nào để hòa nhập với thế giới?"
Không, vấn đề vẫn là hòa nhập vào thế giới nhưng không thuộc về nó. Việc hòa nhập vẫn không mất đi vị trí tiên quyết của nó. Vị trí tiên quyết cho phép bạn hòa nhập vào thế giới nhưng không thành kẻ trần tục.
Hoàn toàn tốt thôi nếu bạn cảm thấy mình như người ngoài hành tinh - chẳng có gì sai trái trong chuyện đó cả. Nếu bạn cảm thấy như thế, rằng thế giới mà bạn đang phải sống không phải là thế giới mà bạn có thể đồng hóa với người ta, với quan niệm, với cách hành xử của họ.
Đây chưa phải là thế giới phù hợp với bạn - tôi muốn nói đến thế giới loài người. Bạn muốn hòa nhập vào nó, trở thành một phần của nó ư? Vậy thì bạn phải là một con chiên Ki-tô giáo thuộc một tổ chức Ki-tô giáo. Vậy thì bạn phải đi nhà thờ, bạn phải tin 'Kinh Thánh'. Bạn có muốn sống theo cách đó ở thế giới này không? Vậy thì tất cả những gì bạn làm từ trước đến nay thật là một sự lãng phí thời giờ một cách vô ích.
Hòa nhập vào thế giới chỉ có nghĩa là bạn sẽ có một việc làm, bạn sẽ phải kiếm miếng cơm manh áo, bạn sẽ phải sống với những người không cùng suy nghĩ với bạn, bạn sẽ sống chung với toàn người nước ngoài; và tất nhiên bạn sẽ cảm thấy mình giống như người ngoài hành tinh vậy. Nhưng bạn nên vui mừng vì điều đó.
Tôi không đưa các bạn trở lại thế giới để rồi các bạn lại lạc lối. Tôi đưa các bạn trở lại thế giới để các bạn vẫn là chính mình dù cho thế giới có ra sao đi nữa. Và đó chính là ý nghĩa nguyên thủy của câu nói đó: Hãy hòa nhập vào thế giới nhưng đừng thuộc về nó. Đến nay, ý nghĩa nó vẫn không hề thay đổi.

Osho yêu quý,
Một trong những điều làm tôi hạnh phúc nhất trong cuộc sống là được nghe ông nói về giác ngộ. Đối với những người thích nghe như chúng tôi, xin ông hãy nói thêm một lần nữa về những điều không thể diễn đạt?
Đúng là không gì đẹp đẽ, vui sướng hơn sự giác ngộ - dù chỉ là nói về nó thôi, chỉ là tiếng vọng từ rất xa thôi, chỉ là cái bóng của nó mà thôi. Mặt trăng in bóng trên nước không phải mặt trăng thật, nhưng nó vẫn mang vẻ đẹp huyền diệu; và nếu mặt nước trong tâm bạn tĩnh lặng thì mặt trăng in bóng sẽ vẫn là nó.
Đó không phải là trải nghiệm của bạn, nhưng đó là trải nghiệm của người mà bạn yêu thương, của người mà bạn tin tưởng. Và chính từ lòng tin yêu của bạn, bạn cảm nhận trải nghiệm đó một cách tinh tế.
Thật khó mà diễn tả nó, dù cả cuộc đời tôi vẫn luôn nói về nó - và chỉ nói về nó mà thôi. Và dù tôi có nói đến điều gì khác thì cũng chỉ để đưa bạn đến một sự hiểu biết về giác ngộ.
Đó là trạng thái tĩnh tại của bạn, là trạng thái khi bạn hòa vào vũ trụ. Đó là bạn khi không còn bản ngã và những rắc rối của nó.
Đó là bạn khi không còn vướng mắc và không còn lời giải - chỉ hoàn toàn tĩnh lặng.
Và không gì vui sướng hơn sự tĩnh lặng này. Đó chính là ánh sáng thanh khiết, niềm vui thanh khiết.
Tôi hiểu được vấn đề của bạn. Nghe đi nghe lại về điều này cũng là một nhu cầu cần thiết, vậy nên bạn đừng quên vì sao mình lại có mặt nơi đây.
Kết thúc quyển “Thực tại – Kẻ tội đồ vĩ đại” – Quay về Mục lục

Chương 9: Lý luận đà điểu

Osho - Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại
Chương 9: Lý luận đà điểu


Osho yêu quý,
Cách đây không lâu chính phủ Anh đã từ chối không cho ông nhập cảnh, thậm chí chỉ là nghỉ qua đêm, với lý do là "vì lợi ích công cộng". Chỉ mấy tuần sau đó người đứng đầu chính phủ này đã cho phép máy bay ném bom của Mỹ sử dụng căn cứ quân sự của mình để tấn công Libya. Bà thủ tướng biện minh cho quyết định ủng hộ việc Mỹ đánh bom các thành phố ở khu vực Trung Đông rằng, trách nhiệm của bà ta là "ngăn chặn quân khủng bố". Quan niệm về tốt xấu của chính phủ Anh xem ra lại là thứ nước đôi. Xin ông hãy nhận xét.
Ta cần hiểu rằng mọi chuyện đều có mối liên hệ với nhau, không tách rời; chính vì thế mà những việc có vẻ là tốt đối với người này nhưng lại là xấu đối với người khác. Và không hề có mâu thuẫn trong chuyện này: cả hai đều có thể đúng.
Tốt xấu là do định kiến của bạn thôi.
Chính phủ Anh cho rằng việc tôi nhập cảnh vào Anh dù chỉ là để nghỉ qua đêm cũng không phù hợp với lợi ích công cộng. Cũng chính phủ đó lại sẵn sàng cho phép không lực Mỹ sử dụng căn cứ quân sự của mình để phá hủy một đất nước nhỏ bé như Libya, và có lẽ đối với chính phủ Anh thì việc này lại phù hợp với lợi ích công cộng.
Không có gì thiếu nhất quán ở đây cả. Trong mắt họ, xã hội của họ, văn hóa của họ, tôn giáo của họ, đất nước của họ phải được bảo vệ bằng bất kỳ giá nào, vì họ tin rằng họ đại diện cho lẽ phải - dù chính phủ Anh đã gây đau khổ cho nhân loại nhiều hơn bất kỳ chính phủ nào khác trên thế giới. Suốt 300 năm họ đã là những kẻ khủng bố kinh hoàng nhất có thể; họ đã giết hàng triệu người trên khắp thế giới, họ đã dựng nên một đế chế hùng mạnh nhất lịch sử. Chính phủ này hoàn toàn có cùng nhất trí với hệ tư tưởng đế quốc chủ nghĩa của Mỹ.
Họ buộc phải trả tự do cho các thuộc địa của mình, không chút vui mừng hay tự nguyện. Những nước thuộc địa đã phải tranh đấu gần cả thế kỷ mà không hề có một dạng quân đội nào. Người ta tàn sát người dân các nước thuộc địa, không chút bận tâm đến giá trị con người.
Tôi nhớ ở Ấn Độ từng xảy ra một chuyện có thể coi là vô nhân đạo nhất trong lịch sử. Ở Amritsar, thánh địa của người Sikh có một công viên rất đẹp có sức chứa ít nhất một triệu người tụ tập, hội họp hay thảo luận. Và nó được sử dụng với mục đích đó. Nó có một bức tường rất cao để tiếng ồn xe cộ không lọt vào khuôn viên và chỉ có duy nhất một cửa nhỏ đủ cho một người đi lọt; hai người không thể cùng lúc đi qua được.
Trong công viên đang diễn ra một cuộc họp kín với gần một triệu người tham dự - đủ cả trẻ con, phụ nữ, người già. Họ cầu nguyện rằng, "Chính phủ Anh sẽ thay đổi tấm lòng và sẽ ra khỏi đất nước chúng ta". Đó không phải là khủng bố; họ chỉ đơn giản cầu nguyện cho người ta thay đổi tấm lòng. Thế nhưng tên đại tá Dyer, kẻ phụ trách khu vực này, đã cùng lính tráng ập đến và nã súng máy vào đám người đang cầu nguyện kia - chúng coi lời cầu nguyện đó là cuộc cách mạng chống lại đế chế của mình!
Chỉ có một cánh cửa và từ cánh cửa đó chúng nã súng tán loạn, không cần phân biệt trẻ con, phụ nữ hay người già. Và không ai trốn thoát được - bức tường bao quanh công viên quá cao. Dyer đã tàn sát toàn bộ số người đó; không một ai sống sót ra khỏi cánh cửa kia. Trên chính đất nước của mình, họ bị người Anh khủng bố, cai trị, bóc lột.
Ấn Độ từng là một đất nước giàu có, hàng ngàn năm qua được biết đến là "con chim vàng" - Pythagoras, Alenxandre Đại Đế đã nói về Ấn Độ như thế. Nhiều lần bị xâm lăng, nhưng Ấn Độ dường như vẫn giữ được sự trù phú giàu sang của mình. Người ta đến, xâm chiếm đất nước này, cướp bóc của cải, cưỡng hiếp phụ nữ...
Chuyện này diễn ra hàng ngàn năm rồi; và người Anh là những tên xâm lược cuối cùng. Suốt 300 năm họ vắt kiệt sự giàu có của đất nước Ấn Độ cho đến giọt cuối cùng. Và người dân Ấn Độ thậm chí còn không được cầu nguyện cho một sự chuyển biến trong trái tim họ - việc này bị coi như là hành động chống lại đế chế Anh. Và chúng không cần một vị quan tòa nào, một vị thẩm phán nào, hay một cuộc xét xử nào. Chỉ... đơn giản là quyết định của một tên đại tá đã đủ giết chết cả triệu con người tội nghiệp kia!
Chính phủ Anh là một trong những hiện tượng tệ hại nhất mà chúng ta từng thấy. Nó đã tạo dựng nên đế chế rộng lớn nhất - người ta nói rằng mặt trời không bao giờ lặn trên nước Anh. Đúng như vậy, bởi đế chế này có thuộc địa trên khắp thế giới. Chỗ này mặt trời lặn nhưng chỗ khác lại đang là bình minh; không có lúc nào đứt đoạn cả. Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh.
Những kẻ thực dân này có mối đồng cảm, tình bằng hữu sâu sắc với Mỹ. Hẳn nhiên vì lợi ích công cộng nên họ mới cho phép Mỹ sử dụng căn cứ quân sự của mình để phá hủy một đất nước nhỏ bé khác.
Nhưng tại sao lại phá hủy Libya? Vì người lãnh đạo Libya lúc bấy giờ là một trong những chính trị gia thẳng thắn nhất trên thế giới. Mới mấy ngày trước đó thôi Kaddafi đã gọi Ronald Reagan là "Adolf Hitler thứ hai". Và tôi, nếu nhận xét về chuyện này, tôi sẽ nói rằng Kaddafi đã sai. Và ông ấy sẽ nhất trí với tôi thôi khi ông ấy hiểu ra lý do tại sao tôi lại bảo ông ấy sai: chính Adolf Hitler mới là người thứ hai. Ronald Reagan là Adolf Hitler thứ nhất. Bản thân Adolf Hitler có quyền lực gì nào? Reagan có quyền lực mạnh gấp hàng triệu lần. Adolf Hitler không thể phá hủy cả thế giới; Reagan thì có thể.
Đối với chính phủ Anh, việc cho phép Reagan sử dụng căn cứ ở Anh là để phục vụ lợi ích công cộng. Cả hai chính phủ này đều là thực dân, đều có cùng tư tưởng bóc lột, đều nhất trí rằng không nên để cho chủ nghĩa cộng sản tồn tại trên thế giới này, đều nhất trí rằng Ki-tô giáo phải là tôn giáo dẫn dắt loài người trên quả đất này: hiển nhiên Ronald Reagan là một người bạn, dẫu cho ông ta có hành động vô nhân đạo mà hậu quả của nó có thể châm ngòi cho thế chiến thứ ba.
Tôi hiểu Kaddafi. Ông ấy không phải loại người chịu đứng nhìn. Và ông ấy đã không đứng nhìn. Ông ấy lãnh đạo một đất nước nhỏ bé nhưng ông không chỉ là một chính trị gia, ông còn là một chiến binh. Đối với ông, thà cả đất nước ông hy sinh chứ không chịu làm nô lệ. Và tôi tán dương ông vì ông là người tiên phong. Ông đáp trả rất tốt. Bây giờ ông ấy đang đánh bom các căn cứ của Mỹ trên khắp châu Âu. Ông ấy đã đánh bom vào Tây Ban Nha; ở những nước mà ông ấy dự định sẽ cho đánh bom - ở Hy Lạp... bất kỳ nơi nào thuộc châu Âu mà có căn cứ của Mĩ, ông ấy sẽ đánh bom vào đó. Và ông ấy cảm thông với tất cả những đất nước bị chà đạp. Ông ấy sẽ nổi dậy thành người lãnh đạo thế giới.
Ronald Reagan có quyền lực nhưng ông ta không có lòng cảm thông.
Chính phủ Anh lo sợ tôi. Chỉ một đêm dừng chân ở phi trường - tôi không hề xin nhập cảnh vào nước này - và họ từ chối tôi dù làm như vậy là không đúng luật của chính họ. Họ biện minh rằng việc này không phù hợp với lợi ích công cộng; rằng một đêm thôi cũng đủ cho tôi phá hủy nền đạo đức của họ, tôn giáo của họ, tất cả những lợi ích thiết thân của họ!
Cũng dễ hiểu thôi: tôi chống lại chủ nghĩa thực dân mà. Tôi chống lại việc bóc lột con người, bóc lột đồng loại mình. Tôi chống lại việc tra tấn người ta chỉ để nắm giữ quyền lực. Có lẽ họ sợ rằng chỉ một đêm thôi cũng đủ cho các sannyasin của tôi trên khắp nước Anh tập hợp lại... chỉ cần một đêm cũng đủ để đem lại cho họ một cái nhìn mới, một cuộc sống mới đi ngược lại với mọi giá trị truyền thống.
Và đây là sự thông đồng. Không chỉ có Anh chịu trách nhiệm cho chuyện này. Tất cả những người đang sống dựa vào những giá trị truyền thống cũng thực sự sợ hãi - rằng con người không chút quyền lực nào ngoại trừ khả năng chỉ cho người ta hiểu rằng đau khổ của họ xuất phát từ những lý tưởng sai lầm của họ, và những lý tưởng sai lầm đó lại được chính phủ và nhà thờ của họ nhấn mạnh. Đó là một sự thông đồng.
Tất cả các chính phủ châu Âu đều nhất trí ở một điểm là tôi không được phép hạ cánh xuống sân bay của họ. Họ không hiểu rằng điều đó cho thấy họ là kẻ chiến bại, rằng họ đã chịu thua rồi. Họ đã tự chứng minh là họ không còn cách nào cứu vãn cho tôn giáo, đạo đức, chính trị của họ, tất cả đều thối nát cả rồi.
Và họ sợ rằng giới trẻ của họ sẽ đi theo tôi mà không ủng hộ họ. Tôi có thể đưa ra một thách thức công khai trước bất kỳ đất nước nào: Hãy để tôi nói chuyện với thanh niên ở đất nước các ông, các ông cũng sẽ nói chuyện với những người trẻ tuổi đó, và hãy để cho những người chủ tương lai này tự quyết định. Các chính phủ này hoàn toàn hiểu rằng họ không thể bảo vệ được những gì họ tin tưởng.
Những nỗ lực ngăn chặn tôi là dấu hiệu tốt; là những tin tốt lành. Nó có nghĩa là họ đã chấp nhận thất bại; nếu không thì họ sợ gì? - lẽ ra họ đã có thể để tôi nói chuyện với người dân của họ. và họ cũng có các vị giám mục, giáo hoàng và mục sư của mình, những người lẽ ra đã có thể đánh bật những lý lẽ của tôi; đó mới là hành động có văn hóa, có tính người.
Vâng, việc này không phù hợp với lợi ích của xã hội thối nát của họ. Nó có thể rung lên hồi chuông tử thần. Nhưng họ không thể ngăn chặn tôi. Tôi không phải là người sẽ phá sập sự thối nát của họ mà chính thời gian sẽ làm việc đó, thời gian không ủng hộ họ. Nếu không phải là tôi thì một người nào đó sẽ phải làm việc này.
Người ta không thể bảo vệ mãi những xã hội, chính phủ và tôn giáo đó. Chúng đã mất hết gốc rễ. Và họ ý thức được điều đó, rằng chỉ cần một cú hích nhẹ là chúng sẽ đổ sập. Họ thậm chí còn không thể kháng cự - họ không còn đủ sức nữa. Bạn có thể dựng đứng một xác chết, nhưng nếu bạn xô nó, nó không thể chống lại mà chắc chắn sẽ ngã xuống. Và tất cả những đất nước kia chỉ là những xác chết mà thôi.
Họ không muốn lớp trẻ của họ tiếp xúc với bất kỳ ai có khả năng chỉ cho chúng thấy cái cũ đã chết rồi và chúng cần phải tìm ra đường đời mới.
Đây không phải là vấn đề của riêng một nước nào; nó là vấn đề của cả quá khứ nhân loại. Một sự quyến luyến ăn sâu, một căn bệnh cố hữu...
Ở Ấn Độ có một câu chuyện rất hay thế này: Shiva là một trong ba vị thần của người Hindu. Người ta không gọi họ là ba vị thần - trinity mà gọi là ba gương mặt của một vị thần - trimurti. Shiva là một trong ba gương mặt đó. Ngài đem lòng yêu nàng Parvati xinh đẹp, ngài yêu nàng đến độ khi nàng chết rồi ngài vẫn không chịu chấp nhận rằng nàng đã chết.
Không ai dám nói với ngài rằng nàng chết rồi và đã đến lúc phải đem nàng đi thiêu. Thế là ngài đem xác nàng Parvati trên vai mình đi khắp Ấn Độ tìm thầy thuốc để chữa trị cho nàng, tìm người có thể đưa nàng quay về với cuộc sống. Bạn không thể mang theo một xác chết... Phải mất 12 năm ngài mới đi hết một vòng đất nước - Ấn Độ là một đất nước rộng lớn. Hễ nghe đâu đó có thầy thuốc giỏi là ngài liền đi đến đó.
Trong suốt 12 năm đó từng phần cơ thể nàng Parvati rơi rụng dần - hết tay rồi đến chân, đến đầu. Thế nhưng ngài không lo ngại về điều đó; ngài thậm chí còn không nhìn ngắm nàng, vì ngài sợ phải nhìn nàng. Bạn hãy nghĩ mà xem.
Ngài sợ nhìn nàng, vì sâu trong tâm ngài vẫn biết là nàng đã chết rồi. Nhưng lý trí của ngài không muốn tin điều đó; ngài muốn tin rằng nàng vẫn còn sống. Lúc này nàng thậm chí không còn nguyên vẹn nữa, cái đầu đã rơi đâu mất rồi, chân đã rơi đâu mất rồi, tay đã rơi đâu mất rồi.
Ấn Độ là đất nước của những câu chuyện kể với nhiều ngụ ý sâu xa. Đến nay vẫn còn mười hai ngôi đền hành hương đánh dấu nơi các bộ phận cơ thể của nàng Parvati rơi xuống, làm cho câu chuyện này có vẻ như là chuyện thật. Mười hai ngôi đền tồn tại trên khắp đất nước, vì các bộ phận cơ thể của nàng Parvati đã rơi xuống những nơi đó nên chúng trở thành đền thiêng.
Thế nhưng Shiva vẫn hoàn toàn mù lòa, cố ý mù lòa. Và đây là tình trạng chung của cả thế giới. Các xã hội đã rữa nát, các tôn giáo đã chết; các chính trị gia chỉ toàn hứa suông và thừa hiểu rằng, mình không thể thực hiện những lời hứa ấy.
Tương lai thì mờ mịt, thế mà chẳng ai muốn hiểu. Quá khứ đã chết, và nếu bạn cứ mãi níu giữ thì tương lai sẽ càng mờ mịt hơn. Khắp nơi, người ta né tránh tôi.
Tất cả các bộ máy quyền lực lên án tôi, chỉ vì một lý do đơn giản là tôi muốn họ nhìn thẳng vào thực tại. Mắt họ cứ nhắm mãi như vậy.
Trong logic người ta gọi đó là "lý luận đà điểu". Con đà điểu có khuynh hướng là: mỗi khi gặp kẻ thù và biết mình chết chắc, nó chỉ cần dúi đầu mình xuống cát. Nó sống trong sa mạc, mắt nhắm tịt mà đầu thì trong cát. Nó yên chí vì nó không còn phải nhìn thấy kẻ thù ở đâu nữa.
Nhưng như vậy không có nghĩa là kẻ thù đã biến mất; thực ra việc đó chỉ làm cho kẻ thù mạnh mẽ hơn mà thôi. Lúc này thì con đà điểu cũng chẳng định làm gì để trốn thoát, chiến đấu, thương lượng, hay bất kỳ điều gì. Thế thì chẳng còn gì phải bàn: đơn giản là nó đứng đó sẵn sàng làm một bữa ngon cho kẻ thù. Kẻ thù của đà điểu chỉ việc ăn nó mà không tốn tí sức lực nào, bởi lẽ đà điểu vẫn cứ sống với một ý niệm rằng: "Tớ chả thấy có kẻ thù nào ở đây cả".
Ngày nay lý luận của đà điểu có mặt khắp nơi. Không ai muốn nhìn thấy thực tại - rằng mình đang chìm đấy, rằng mọi giá trị của mình đều là giả dối, rằng toàn bộ nền văn minh của mình rặt bọn đạo đức giả, rằng tất thảy những nụ cười chỉ toàn là sự cử động của cơ miệng và chẳng hề có chút tâm tư nào trong đó, rằng mình đã quên là mình phải sống, phải yêu, phải cười, rằng mình chẳng hiểu được ý nghĩa của cuộc đời.
Bạn cứ níu giữ vì không còn gì khác nữa, không có sự lựa chọn khác - và người ta tránh né tôi vì lẽ tôi có thể đem đến cho bạn một sự lựa chọn khác.
Tôi chỉ cho bạn thấy rằng đó không phải là con đường duy nhất mà một xã hội có thể tồn tại, đó không phải là con đường duy nhất mà một cuộc hôn nhân có thể tồn tại, đó không phải là con đường duy nhất mà người ta có thể nuôi dạy con trẻ, đó không phải là con đường duy nhất mà các chính phủ có thể vận hành. Có những con đường khác.
Thế mà chỉ cần nghe tới sự lựa chọn khác thôi cũng đủ làm họ kinh sợ. Họ không thể để thông điệp này đến với giới trẻ - bởi giới trẻ chắc chắn sẽ bị tác động bởi cái tin có một sự lựa chọn khác, rằng bạn không cần sống mãi trong đau khổ này, không nhất thiết phải chiến tranh mãi, giết người mãi.
Bây giờ Libya đang tấn công các căn cứ của Mỹ. Mỹ không thể im lặng mãi được: nó sẽ đánh trả Libya - không chỉ tấn công vào các căn cứ quân sự mà còn vào cả thường dân nữa. Là một đất nước nhỏ bé nhưng Libya hiểu rằng nếu Mỹ tấn công vào dân thường thì cả phương Đông - đặc biệt là Trung Đông - sẽ ủng hộ Libya.
Thế nhưng chính phủ Anh không sợ điều đó xảy ra. Chính phủ Anh lẽ ra nên ngăn chặn Mỹ mới phải: "Đây không phải là một khởi đầu đúng hướng; không phù hợp với lợi ích công cộng. Nó sẽ đưa đất nước ngày càng dấn sâu vào chiến tranh. Đừng bước đi bước chân đầu tiên; nếu không bước chân cuối cùng sẽ không còn xa nữa". Tuy nhiên họ thà thấy thế chiến thứ ba nổ ra còn hơn là thay đổi lối tư duy của con người.
Tại sao? - bởi vì việc thay đổi lối tư duy của con người có nghĩa là hàng triệu năm qua các bạn đã cư xử một cách ngu dốt, tiền nhân của chúng ta chỉ đơn giản là những tên ngốc chứ không hơn gì. Họ không hiểu gì về ý thức của con người; họ chỉ là loài vô thức, mù lòa. Và người mù bấy lâu vẫn dẫn dắt người mù đi về phía ánh sáng. Dường như thật khó mà chấp nhận được chuyện quá khứ đã sai lầm. Thà phá hủy tương lai và ngoan cố rằng quá khứ của chúng ta đã đúng: Cứ để người ta chết nhưng cứu vãn được cái tôi của mình.
Đó là lý do tại sao tôi lại là một mối nguy, dù chỉ là một đêm dừng chân ở phi trường, còn tên lửa hạt nhân của Mỹ thì chẳng nguy hại chút nào. Họ suy nghĩ giống nhau; nền toán học của họ giống nhau.
Đối với tôi họ là một kẻ nguy hiểm vì tôi không có niềm tự hào về quá khứ. Tôi là kẻ nguy hiểm vì tôi không nghĩ rằng hàng ngàn năm qua loài người đã sống một cách thông minh; nếu không thì tại sao lại có quá nhiều đau đớn, lo sợ, khổ não đến vậy? Hoa trái thể hiện tình trạng của cây. Và thứ hoa trái mà chúng ta có đã chứng minh một điều là toàn bộ quá khứ nhân loại đã sai lầm và cái tôi cứ đẩy đi mãi vào cái hướng sai lầm đó.
Tôi sẵn sàng thay đổi quan niệm của mình nếu ai đó có thể chỉ cho tôi thấy rằng họ đã sai lầm, rằng họ sẽ không đem đến lợi ích cho người dân. Nhưng không ai sẵn sàng làm việc đó; họ chỉ đơn giản chấp nhận nó. Không cần tranh luận, không cần bàn thảo.
Chính phủ Tây Ban Nha đã phải mất một tháng liền thảo luận việc có nên cho tôi vào nước họ hay không. Họ có các căn cứ hạt nhân cho quân đội Mỹ; họ là thành viên của NATO, và vị thủ tướng có được chức vụ của mình nhờ lời hứa với người dân Tây Ban Nha rằng ông ta sẽ lôi Tây Ban Nha ra khỏi NATO, và rằng sẽ buộc Mỹ rút các căn cứ ra khỏi Tây Ban Nha. Và người Tây Ban Nha thì không muốn... vì họ đã thấy Franco, kẻ đã cai trị họ trong suốt 40 năm với chế độ độc tài; hắn đã phá hủy mọi tự do tư duy và giết hại tất cả những ai nói ra điều gì chống lại hắn. từ bấy đến nay đã 40 năm rồi, người ta không muốn rơi vào cơn ác mộng đó thêm một lần nữa.
Họ bầu người đàn ông này làm thủ tướng vì một lý do duy nhất - đó là ông ta hứa sẽ rút khỏi NATO và buộc Mỹ phải rời khỏi Tây Ban Nha. Hai năm đã đi qua và người dân bắt đầu tự hỏi: "Chuyện gì đã xảy ra? Ông không chịu rút khỏi NATO, mà cũng không buộc Mỹ rút ra khỏi Tây Ban Nha".
Trong hai năm này, người đàn ông đó... lúc mới lên nắm quyền lực ông ta chưa phải là chính trị gia, nhưng hai năm này đã biến ông ta thành một chính trị gia. Ông ta nói: "Kinh nghiệm hai năm cầm quyền đã thay đổi quan điểm của tôi: chúng ta vẫn là thành viên của NATO và căn cứ quân sự của Mỹ vẫn được phép đặt trên lãnh thổ Tây Ban Nha".
Trước sự trở mặt của ông ta như vậy, người dân đã đòi có một cuộc trưng cầu dân ý. Nhưng vị thủ tướng, toàn bộ bộ máy quan liêu, toàn bộ chính phủ, đều nhất trí ủng hộ Mỹ và tiếp tục tham gia NATO. Tuy nhiên họ không phải số đông. Giới trẻ của Tây Ban Nha vẫn tiếp tục bỏ phiếu chống lại họ: 45% cử tri bỏ phiếu phản đối việc tham gia NATO. Nhưng chính phủ với quyền lực của mình đã giành được đa số phiếu ủng hộ.
Nếu người đàn ông này có chút nhân phẩm nào thì ông ta hẳn đã từ chức, vì ông ta được lựa chọn để thực hiện một chương trình đơn giản. Ông ta không được chọn mà là chương trình được chọn, và vì ông ta đã bỏ dở chương trình, ông ta nên từ chức càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, hình như các chính trị gia không biết xấu hổ là gì, họ không có chút nhân phẩm, lòng tự trọng hay danh dự nào.
Ông ta muốn tôi lưu lại Tây Ban Nha nhưng vấn đề là sức ép của Mỹ. Ông ta trì hoãn suốt một tháng ròng. Ông ta thông báo với tôi rằng tôi không nên để lộ tin Tây Ban Nha mời tôi đến, vì hoàng gia Tây Ban Nha, thủ tướng, tổng thống, nội các - tất cả sẽ ra sân bay đón tôi. Tôi sẽ là khách mời, nên họ sẽ chọn ngày giờ và thông báo cho tôi sau.
Thế nhưng dần dần ông ta nhận thấy trước tình hình 45% cử tri bỏ phiếu chống lại ông ta thì việc đưa một người như tôi vào đất nước sẽ rất nguy hiểm vì những thanh niên này chắc chắn sẽ bị tôi tác động.
Nghị viện quyết định chào đón tôi, nội các quyết định chào đón tôi, nhưng rốt cục ông thủ tướng thông báo với tôi rằng việc này không thể được; nó sẽ gây nhiều rắc rối về mặt chính trị.
Tôi hiểu khó khăn đó; khó khăn đó đến sau khi diễn ra cuộc trưng cầu dân ý. Và hàng ngày tôi vẫn bảo John rằng, nếu có quyết định thì nên quyết định trước khi cuộc trưng cầu dân ý diễn ra. Sau đó thì tôi không còn hy vọng nữa, vì một khi ông thủ tướng biết được có bao nhiêu người bỏ phiếu chống lại ông ta, ông ta sẽ không còn đủ can đảm để mời một người có khả năng gây ảnh hưởng lên người dân của ông ta.
Đây là nỗi sợ có mặt hầu như khắp nơi trên thế giới - một nỗi sợ kỳ quặc. Trong đất nước nhỏ bé tươi đẹp này, người ta bảo tôi rằng không nên đề cập đến chuyện chúng tôi có một triệu sannyasin trên khắp thế giới và ba triệu người ủng hộ, vì điều đó có thể làm cho người ta sợ - đất nước này chỉ có ba triệu dân và họ sẽ không thích một người đầy quyền lực như tôi, một người được bốn triệu người yêu mến, xuất hiện trên đất nước của họ.
Lẽ ra đất nước này nên tự hào mới phải... tôi không phải là một chính trị gia, tôi không định thi thố quyền lực chính trị với ai; ấy thế mà, sợ vẫn hoàn sợ. Tất cả những người nắm giữ quyền lực kia, sâu thẳm trong họ là sợ hãi và thấp kém.
Họ cứ nghĩ... điều duy nhất tồn tại trong tâm trí họ là quyền lực, cái gì có thể đem lại cho họ nhiều quyền lực hơn và cái gì đó có thể phá hủy quyền lực của họ. Và họ đưa ra điều kiện...
Tổng thống Hy Lạp rất sẵn lòng cho phép tôi lập hội ở Hy Lạp, thực ra đó là điều ông ta muốn. Ông ta có những động cơ khác nhau - vì như vậy sẽ thu hút được hàng ngàn khách du lịch đến Hy Lạp và góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực ra chính ông ấy đã quyết định cấp cho tôi tấm visa bốn tuần ở Hy Lạp.
Nhưng rồi điều kiện đặt ra là - nếu tôi muốn ở đó và lập hội, tôi phải ghi nhớ một số điều thế này: "Hiến pháp chúng tôi tôn vinh nhà thờ Chính thống Hy Lạp; ông không được phê phán nó. Gia đình là nền tảng xã hội của chúng tôi; ông không được phê phán nó. Chuẩn mực đạo đức của chúng tôi, ông không được phê phán nó. Chúng tôi tin vào sự trinh tiết; ông không được phê phán nó".
Chắc chắn là họ tin vào sự trinh tiết nhưng khó mà tìm được một ai còn trong trắng trên khắp đất nước Hy Lạp này. Cũng không sao - nhưng bạn không được phê phán nó. Bạn có thể hiểu lối tư duy chính trị: người ta có thể chấp nhận thực tế nhưng không được phơi bày nó ra. Tôi không thể chấp nhận điều kiện của bất kỳ ai.
Dù có xảy ra chuyện gì với tôi, dù hậu quả có là gì... nhưng để chấp nhận điều kiện, và để nhận một miếng đất nhỏ...
Một người cần đến bao nhiêu đất là đủ? Có lẽ tôi thà sống mà không thuộc một đất nước nào - một kẻ lang thang đúng nghĩa. Cũng từng đó nhiều người hành khất rồi, nhưng tất cả họ đều có chỗ dựa quê hương. Tôi sẽ là một kẻ lang thang đích thực không có quê hương - bị hết nước này đến nước khác từ chối. Nhưng sự từ chối của họ đối với tôi chỉ đơn giản là sự thừa nhận thất bại và bất lực của họ. Sớm muộn gì họ cũng sẽ phải trả giá, trả giá rất đắt, vì ở đâu cũng có những người thông thái. Những người thông thái này còn chịu đựng như thế được bao lâu nữa? Sớm muộn gì cũng nổ ra cuộc cách mạng. Không cần phải đặt chân lên đất nước họ tôi vẫn có thể tìm được những người bạn nơi đó.
Tôi không thể mất hết hy vọng, vì tôi thấy sự thông thái vẫn còn đó. Nó bị đè nén nhưng nó vẫn tồn tại. Nó đã trở thành một dòng chảy ngầm, nhưng việc người ta cự tuyệt tôi sẽ kích động nó tràn lên bề mặt. Không bao lâu nữa sẽ nổ ra những cuộc phản kháng ở tất cả những nước từ chối tôi.
Ở Ý người ta trì hoãn suốt 3 tháng liền, chỉ với mỗi việc là cấp một tấm visa du lịch ba tuần. Và ông tổng thống, thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao, tất cả đều nói: "Chúng tôi sẽ cấp visa cho ông ấy - hãy đợi đến mai...". Và các sannyasin chờ đợi từng ngày, đến trước trụ sở cơ quan của những người kia chờ đợi, "Chúng tôi luôn sẵn sàng bất kỳ lúc nào các ông muốn. Nhưng bao giờ ngày mai mới đến?". Và sau ba tháng những người kia bắt đầu mệt mỏi, vì bị giáo hoàng kìm hãm. Họ không thể nói không với các sannyasin vì chẳng có lý do gì để từ chối cả.
Vậy nên chính phủ không thể từ chối vì việc này có thể gây rắc rối. Và giáo hoàng thì vẫn khăng khăng là không nên để tôi vào Ý. Thế là họ cứ trì hoãn mãi. Rốt cục các sannyasin mệt mỏi rồi bắt đầu phản đối, và một trong những đạo diễn nổi tiếng nhất nước Ý lúc bấy giờ Fellini đã là người đầu tiên ký vào đơn kiện. Ba mươi sáu nhân vật nổi tiếng thế giới khác cũng ký vào lá đơn này, và người ta vẫn đang thu thập thêm nhiều chữ ký nữa - mà tôi thì chưa hề đến đó.
Nhưng có một điều chắc chắn là, dù bạn có ủng hộ tôi hay không: bạn không thể ngăn chặn tôi bày tỏ quan điểm, tầm nhìn của mình. Những gì đang diễn ra ở đó cũng sẽ diễn ra ở Đức, ở Hy Lạp, ở Anh, ở Tây Ban Nha, ở khắp mọi nơi. Các sannyasin phải tạo ra một làn sóng phản đối trên khắp thế giới, với sự tham gia của tất cả những nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà điêu khắc, vũ công, diễn viên, đạo diễn kỳ tài - những chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau có ảnh hưởng trên thế giới.
Trước tiên hãy kêu gọi họ ký vào đơn kiện, trên tất cả các nước và gửi đến Liên Hiệp Quốc - vì đây không còn là vấn đề của riêng một quốc gia nào; nếu nghị viện châu Âu quyết định không để tôi đặt chân vào châu Âu, dù chỉ là quá cảnh trên phi trường của họ, bạn không thể coi chuyện này là của riêng cá nhân tôi.
Tôi đã trở thành người đại diện cho sự thông minh của những người sáng tạo, tài năng trên khắp thế giới. Đó là đất nước của tôi.
Và các sannyasin phải đưa chuyện này ra Liên Hiệp Quốc, đơn giản vì nó quá tệ hại rồi.
Tuy nhiên, như đã nói từ đầu, mọi việc đều có mối liên hệ với nhau.
Đối với tôi thì nó tệ hại. Và đối với tất cả những người có khả năng hiểu biết thì nó rất tệ hại. Nhưng đối với những kẻ tin vào logic đà điểu thì nó tốt đẹp, nó "phù hợp với lợi ích chung".
Song chúng ta sẽ chỉ cho cả thế giới biết rằng cái gì là tốt và cái gì là xấu đối với nhân dân!


Osho yêu quý,
Tôi là một trong những người đã tham gia cuộc diễu hành khi danh sách những người giác ngộ được công bố, vì tôi nghĩ, "Nếu Osho nói mình đã giác ngộ thì sao không thử làm thế?". Tôi thích thú với điều đó: Tôi mở tiệc mời hàng trăm bạn bè tới ăn mừng và suốt sáu tháng sau đó - cho đến khi tôi tăm tối trở lại - tôi cố tận dụng những gì mình thấy được như một tình huống tiềm tàng. Cái chính là tôi thấy rằng mình thực sự ổn. Có phải tôi đang tự lừa dối mình về kinh nghiệm đó không?
Không, bạn hiểu được như vậy nghĩa là bạn không lừa dối chính mình. Trước tiên hãy để tôi giải thích một số chuyện khác. Sau khi tôi tuyên bố một số người đã đạt giác ngộ - Santosh là một trong số đó. Anh viết cho tôi một lá thư rằng, "Việc tuyên bố sự giác ngộ của tôi không làm tôi vui sướng chút nào, nhưng việc được chấp nhận là một thành viên trong ủy ban những người giác ngộ khiến tôi mừng vui lắm".
Tôi đáp thế này: "Tại sao giác ngộ lại không làm ông vui sướng? Lý do là ông nghĩ ông đã giác ngộ rồi - mà sự thực thì không đúng như vậy. Chính vì thế mà việc trở thành một thành viên trong ủy ban những người giác ngộ làm cho ông cảm thấy vui mừng - cuối cùng thì sự giác ngộ của ông cũng được thừa nhận. Đó không phải là tuyên bố dành cho ông mà là một sự công nhận rằng, ông đã đạt giác ngộ trước đó lâu rồi.
"Nhưng nếu giác ngộ không phải là niềm vui sướng thì làm sao việc là thành viên của một uỷ ban những người giác ngộ lại là điều hạnh phúc? Nếu bản thân sự giác ngộ không có ý nghĩa gì đối với ông thì việc trở thành thành viên của ủy ban kia cũng không thể có ý nghĩa gì, ngoại trừ điều này: nó đáp ứng cái tôi của ông.
"Ông đã đạt giác ngộ, và không ai chú ý đến điều đó. Cuối cùng thì cũng có tôi nhận ra, và giờ đây ông trở thành thành viên của ủy ban những người giác ngộ, như vậy là việc này đã được chứng thực. Nhưng ông đã lầm - vì tất cả đều là trò đùa thôi! Cái ủy ban kia cũng là trò đùa, việc công bố kia cũng là trò đùa. Và đó là một công cụ".
Somendra lập tức gửi một bức điện cho Teertha nói rằng: "Tôi thành công rồi - thế còn bạn?". Anh ta vẫn luôn cạnh tranh như vậy - đó là vấn đề của anh ta, anh ta luôn muốn giỏi hơn Teertha. Và đây là cơ hội tốt.
Anh ta từ bỏ hội đoàn, không liên hệ với chúng ta nữa, nhưng anh ta chấp nhận tuyên bố của tôi rằng anh ta đã giác ngộ. Anh ta từ bỏ hội đoàn - anh ta không còn là người trong gia đình của tôi - nhưng sự giác ngộ... Anh ta lập tức gửi một bức điện: "Tôi thành công rồi - thế còn bạn?". Đó là một công cụ để thấy được người ta phản ứng thế nào. Phản ứng của bạn trước chuyện này thật đáng khen.
Phản ứng của bạn là: "Nếu Osho bảo mình giác ngộ thì hẳn là mình đã giác ngộ rồi".
Nó đơn giản cho thấy niềm tin, tình yêu củab ạn. Nó chẳng can hệ gì đến cái tôi cả. Và việc bạn tổ chức tiệc tùng và ăn mừng cùng bạn bè cũng hoàn toàn đúng thôi.
Và khi tôi nói đó chỉ là trò đùa, bạn không tức giận. Bạn chỉ đơn giản phản ứng như thế: "Nếu Osho nói mình chưa giác ngộ, rằng đó chỉ là trò đùa thì có lẽ mình chưa giác ngộ thật và đó thực sự chỉ là trò đùa thôi". Và trong sáu tháng bạn sống như một người giác ngộ, niềm vui sướng, sự an bình mà bạn cảm nhận được không phải xuất phát từ giác ngộ mà xuất phát từ lòng tin yêu. Đó là một trải nghiệm tốt cho bạn.
Tuy nhiên mỗi người đều có những trải nghiệm khác nhau.
Trong nhóm được tuyên bố giác ngộ chỉ có hai người là người Ấn Độ, và họ hiểu giác ngộ theo cách hiểu truyền thống. Một người trong số đó là Vinod Bharti.
Ông ấy căng thẳng, khóc lóc đến nhờ Vivek chuyển cho tôi lá thư này: "Osho này, tôi chưa giác ngộ đâu. Ông làm khó cho tôi rồi: tôi không thể nói là ông đã lầm, và tôi biết rõ là mình chưa giác ngộ. Tôi phải làm gì đây? Tôi chỉ là một sinh linh bé nhỏ mong manh. Xin hãy cho tôi biết sự thật!".
Ông ấy hiểu rằng mình chưa đạt đến giác ngộ. Ông ấy hiểu rằng hàng thế kỷ qua ở Ấn Độ giác ngộ là đỉnh cao tối thượng trong cuộc kiếm tìm tâm linh. Ở phương Tây chưa bao giờ tồn tại ý niệm này. Vì thế mà ông ấy không thể quan niệm được chuyện mình đã đạt đến cảnh giới của đức Phật Cồ Đàm, mà ông ấy lại không thể phủ nhận điều tôi nói vì ông ấy tin yêu tôi. Vậy là tôi đã làm khó cho ông ấy. Thế nên tôi nhắn lại cho ông rằng: "Đừng bận tâm, chỉ là trò đùa thôi. Ông chưa giác ngộ đâu, cứ thoải mái đi!".
Hai đêm liền ông ấy mất ngủ, cho đến khi ông nhận được lời nhắn của tôi. Và ông ấy thở phào nhẹ nhõm - mình chưa giác ngộ; vây là không có vấn đề gì.
Người kia là Swami Anand Maitreya, người duy nhất hiểu ngay lập tức rằng đó chỉ là trò đùa, ông ra khỏi phòng và nói: "Osho thật tinh quái! Bảo rằng tôi giác ngộ rồi thì hãy chứng minh xem!". Nhưng ông ấy cũng là một người Ấn Độ, lại là người xứ Bihar, nơi xuất phát nhiều bậc giác ngộ nhất ở Ấn Độ - Phật Cồ Đàm, Mahavira, Parsunatha, Naminatha, Adinatha.... một danh sách dài. Tổng cộng là hai mươi bốn vị giác ngộ của Kỳ-na giáo, Đức Phật Cồ Đàm - họ đều xuất phát từ Bihar. Ở Bihar người ta có hiểu biết và trải nghiệm sâu sắc nhất về giác ngộ. Thế nên ông nói một cách tự nhiên rằng: "Osho thật tinh quái". Nhưng đó cũng là xuất phát từ tình yêu của ông.
Ông ấy không giận, vì một khi bạn biết đó chỉ là trò đùa bạn chẳng bận tâm đến nó làm gì nữa.
Một số người chỉ đơn giản giữ im lặng: họ không phản ứng theo cách này hay cách khác. Như thế cũng tốt. Họ không bị nó lay chuyển; đơn giản họ vẫn là họ. "Nếu Osho gọi đó là giác ngộ, có thể đúng; nếu ông ấy nói không phải, thì có thể là không phải". Nhưng chuyện đó chẳng ảnh hưởng gì đến họ. Họ vẫn là người quan sát.
Và đây quả là một kinh nghiệm quý báu, được nhìn thấy người ta phản ứng như thế nào trước một ý niệm bằng lý trí của họ. Những người không được kết nạp vào ủy ban hết sức phẫn nộ. Tôi nhận được mấy lá thư nói rằng: "Nếu những người này đã đạt giác ngộ thì tại sao tôi chưa được?". Cứ như nó là thứ mà... "Ông đem nó đến cho những người này. Tại sao không cho tôi?".
Có người viết: "Tôi đã theo ông lâu hơn những người này, ấy vậy mà tôi vẫn chưa được giác ngộ. Ông bỏ sót tôi, hay vì lý do gì khác?". Dù sao thì biết người ta phản ứng thế nào cũng là một kinh nghiệm tốt.
Phản ứng của bạn là rất đẹp, cả hai chiều. "Nếu Osho nói đó là giác ngộ thì hẳn là như vậy" - đơn giản nó là niềm tin. "Và nếu Ngài nói đó không phải là giác ngộ...". Lúc này bạn không cảm thấy chút mâu thuẫn hay sự thiếu nhất quán nào, bạn chỉ đơn giản chấp nhận nó: "Nếu ông ấy nói không phải thì hẳn là như vậy". Bạn đã vượt khỏi thế giới của những thứ nhất quán và không nhất quán. Tình yêu không có mâu thuẫn. Tình yêu không có so sánh. Mỗi phút mỗi giây bạn đều cảm nhận được nó.
Xem tiếp Chương 10 – Quay về Mục lục

Chương 8: Tôi muốn kích động lòng đố kỵ của bạn

Osho - Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại
Chương 8: Tôi muốn kích động lòng đố kỵ của bạn


Osho yêu quý,
Vì lẽ ông là bậc kỳ tài trong việc kết hợp và rồi vượt xa khỏi ngưỡng vật chất và tâm linh, vì lẽ cuộc sống của ông dường như lúc nào cũng dư dả cả ở hai thế giới, tôi nghĩ rằng nhiều người bình thường và cả những sannyasin cũng thấy đố kỵ với ông. Người ta phẫn nộ và không còn muốn chu cấp cho một người đã dư dật mọi thứ rồi. Nếu họ có chu cấp thì cũng chỉ chu cấp cho những người nghèo đói mà thôi. Ông ngồi trong hang, trần trụi, lạnh giá và thiền hành là một chuyện, nhưng ông lại không làm vậy. Những sannyasin chưa bao giờ dám mơ đến một chiếc Rolls Royce hẳn thèm khát nó lắm, thậm chí còn khao khát nó hơn cả trạng thái giác ngộ dù đã đi theo ông nhiều năm rồi. Hình như ông đã châm ngòi cho một thứ lòng tham vật chất chứ không phải niềm khao khát vươn đến cao xa - ít nhất thì đó cũng là thông điệp mà một số người nhận được. Xin ông hãy nhận xét.
Đó là một phần trong phương sách của tôi nhằm thay đổi cái cấu trúc cốt lõi của ý thức nhân loại.
Quá khứ đã tôn sùng những thái độ nghèo đói, khổ hạnh, khổ dâm. Một người sẽ được sùng kính nếu anh ta từ bỏ mọi sung sướng, tiện nghi. Anh ta sẽ được kính nể vì đã tự hành hạ mình; càng tự tra tấn anh ta càng được tôn sùng. Quá khứ của cả nhân loại là khổ dâm, và tất cả các tôn giáo đều cổ vũ cho sự điên rồ này.
Tôi đang cố thay đổi quá khứ đó và ảnh hưởng của nó. Và chỉ có một phương cách mà thôi. Tôi không tạo ra cho người ta những ham muốn vật chất; chúng vốn dĩ đã có trong mỗi con người rồi mà không cần ai phải tạo ra cả. Vâng, chúng bị dồn nén sâu trong con người ta đến mức họ không còn nhớ là mình có chúng nữa. Tôi không tạo ra chúng; tôi chỉ đơn giản muốn tháo dỡ những thứ che đậy, đè nén, và giúp người ta hiểu ra rằng họ thèm có được một chiếc Rolls Royce hơn là sự giác ngộ.
Hiểu ra điều này là một bước cơ bản để đến được giác ngộ, bởi lẽ nó sẽ giúp người ta ý thức được thực tế của mình, lòng tham của mình.
Không nhất thiết phải có tới 93 chiếc Rolls Royce. Tôi chẳng thể nào đi hết 93 chiếc trong cùng một lúc - chỉ có một nhãn hiệu, một loại xe mà thôi. Nhưng tôi muốn các bạn hiểu rằng bạn sẽ sẵn sàng vứt bỏ mọi khao khát về thực tại, về tình yêu, về sự phát triển tâm linh để có được một chiếc Rolls Royce. Tôi cố tình tạo ra tình huống làm bạn cảm thấy đố kỵ.
Toàn bộ truyền thống và cả cái quá khứ đã làm điều hoàn toàn trái ngược. Cái gọi là vị thánh, trong mọi truyền thống, tồn tại theo cách không bao giờ làm cho bạn thấy ghen tỵ với họ. Bạn hãy để ý mà xem.
Bạn sẽ thấy đồng cảm với họ, sùng kính họ, nhưng sự sùng kính không phải là thực tại của bạn, đồng cảm không phải bản chất của bạn. Vị thánh thường tự tra tấn mình, mà đó cũng chẳng phải là bản chất của ông ấy. Ông ta đi ngược lại với tự nhiên để có được sự sùng kính, để đáp ứng bản ngã của mình. Ông ta không muốn phát triển tâm linh; ông ta chỉ muốn được tôn sùng như một vị thần. Và ông ta sẵn sàng làm bất kỳ điều gì để được như vậy.
Ông ta sống trong ảo tưởng, và ông ta cũng đang tạo ra một thứ ảo vọng trong những người đến với ông ta. Ông ta giúp họ cảm thấy rằng họ là những người sùng đạo, giàu tâm linh vì họ tôn sùng một vị thánh. Họ chưa sẵn sàng đi theo con đường khổ hạnh, nhưng họ hy vọng một ngày nào đó, đây chính là lý tưởng của họ. Họ hoàn toàn quên rằng họ là những con người đầy lòng đố kỵ. Và vị thánh đã giúp họ quên đi lòng ghen tỵ của mình; vị thánh đã giúp họ đè nén nó.
Công việc của tôi hoàn toàn khác. Tôi muốn khiêu khích lòng đố kỵ của các bạn, vì đó là cách duy nhất để bạn thoát khỏi nó. Trước tiên bạn phải hiểu rằng mình có lòng đố kỵ; và rồi bạn sẽ có thể vứt bỏ nó, bởi nó là đau khổ và địa ngục. Nhưng bạn đã đè nén nó chặt và sâu đến mức không bao giờ trong bạn lại nảy sinh câu hỏi về việc vứt bỏ nó.
Tôi sống trong dư dả vì đối với tôi không có sự phân cách giữa vật chất và tâm linh.
Dạy người ta sống trong nghèo đói là một việc hết sức nguy hiểm: bạn sẽ nghèo về vật chất, và bạn cũng sẽ nghèo về tinh thần, vì không có sự phân cách giữa hai thứ đó. Tôi dạy các bạn sống giàu sang, sống trong dư dả, cả về vật chất lẫn tinh thần. Vấn đề không phải là bạn nên giàu có về vật chất hay tâm linh. Vấn đề cơ bản là liệu bạn có được sống trong dư dả, trong giàu có - mà đó chính là tự nhiên và hiện hữu. Ham muốn cơ bản của bạn là được khai nở trong dư dả, được biết đến mọi sắc thái, mọi bài ca, mọi vẻ đẹp trong cuộc sống.
Tuy nhiên, như thế là tôi đã vướng vào mâu thuẫn với những cái cũ, vì quá khứ của cả nhân loại bấy lâu nay vẫn luôn ca ngợi nghèo khó và đưa nó lên ngang bằng với tâm linh, mà điều này hoàn toàn vô nghĩa.
Tâm linh là sự giàu có tuyệt vời nhất mà một con người có thể có được, nó chứa đựng tất cả những sự giàu có khác. Nó không đi ngược lại bất kỳ một sự giàu có nào, nó chỉ đơn giản chống lại mọi loại nghèo đói. Thế nên tôi đang cố làm một việc cơ bản đến mức nóc hắc hẳn sẽ tạo ra một sự phản kháng từ khắp mọi ngóc ngách trên thế giới. Người ta đã sống với những giá trị nhất định đã quá lâu rồi, đến nỗi dù những giá trị đó chỉ đem lại cho họ đau khổ họ cũng không nhìn thấy được mối liên hệ. Những giá trị đó không đáp ứng được họ, không làm họ sung sướng - nhưng họ vẫn không nhìn thấy mối liên hệ.
Tôi muốn những người đi theo tôi trở thành hình tượng để làm cho cả thế giới ý thức được rằng, khổ đau của họ bắt nguồn từ những giá trị sai lầm của họ, rằng họ nghèo là vì họ tôn sùng nghèo khó - và hành động của họ quả là điên rồ. Một mặt họ tôn sùng nghèo khó, mặt khác họ lại nói rằng: "Hãy giúp đỡ người nghèo". Thật kỳ quặc! Nếu sjư nghèo đói mang tính tâm linh đến thế thì việc làm đáng tôn kính nhất là biến tất cả những người giàu thành người nghèo, giúp người giàu trở nên nghèo khó, để họ có thể được giàu về tâm linh. Giúp đỡ người nghèo để làm gì? Bạn muốn phá hoại tâm linh của họ ư?
Thế nhưng, có một tiềm thức sâu thẳm, một sự mù lòa mê muội đang tồn tại, và tôi sẽ đấu tranh chống lại cái tiềm thức nặng nề ấy, cái bóng đêm bao trùm ấy. Hẳn nhiên là nó sẽ rất tức giận. Lẽ ra họ đã có thể yêu thưong tôi, tôn sùng tôi. Và để làm những điều họ muốn thì cực kỳ đơn giản, nhưng làm như thế thì tôi lại đi theo con đường đau khổ cố hữu ấy, căn bệnh cố hữu ấy, sự ngu dốt cố hữu ấy. Tôi thà đi con đường không được người tôn kính chứ không giúp bất cứ một hệ thống giá trị vô nghĩa nào.
Tại sao việc những người khổ hạnh - những người tự hủy hoại mình làm cái việc đại loại như tự vẫn từ từ - lại được kính trọng đến thế; điều đó rất dễ hiểu thôi, bởi lẽ bạn không làm giống như vậy được. Họ làm một việc mà bạn không làm được. Nếu ai đó trồng cây chuối ngàoi đường thì ngay lập tức người ta sẽ xúm lại xem, nhưng nếu bạn cứ đi bằng hai chân thì chẳng ai thèm ngó tới.
Vậy người kia đã làm gì để thu hút đám đông đó? Anh ta đã làm một việc mà đám đông đó không làm được. Anh ta đang chứng tỏ lý trí mạnh hơn thân xác, nghị lực mạnh hơn năng lực. Hành xác là chứng tỏ anh ta không phải là xác thịt, nó không ảnh hưởng đến anh ta. Khổ hạnh, không ngủ, hay đứng đó suốt nhiều ngày liền - anh ta chứng tỏ anh ta đã làm được những việc mà bạn không thể; rằng anh ta ở đẳng cấp cao hơn bạn. Bạn cũng làm được những việc đó, chỉ cần bạn ngu dốt một chút, tiêu cực một chút, thích tự tử một chút. Tất cả những gì bạn cần là một thứ sung sướng trong đau đớn và bạn sẽ trở thành một vị thánh tâm linh vĩ đại.
Tôi đã nhìn lại toàn bộ lịch sử mà không thấy có một ai chống lại thái độ tự sát trước cuộc sống, thái độ chống lại cuộc sống này. Có lẽ người ta sợ rằng sẽ không có ai chịu nghe theo họ, sợ rằng nó sẽ đánh mất sự đáng kính của mình.
Từ những ngày chập chững bước vào đời tôi đã quyết định rằng, mình phải ý thức được một điều là không được bận tâm đến sự đáng trọng. Ý thức được như thế mọi việc sẽ rất đơn giản. Lúc đó tôi có thể làm được những việc thuận theo tự nhiên và lành mạnh. Và tôi có thể bắt chiếc cầu nối giữa vật chất và tâm linh, giữa thế giới này và thế giới kia.
Và đối với tôi, sống trong dư dật là điều linh thiêng nhất trên thế giới này.
Hãy nhìn hiện hữu và sự dư dả của nó. Sao trên thế giới này lại có nhiều hoa đến thế? Chỉ cần hoa hồng thôi là đã đủ rồi, nhưng hiện hữu rất giàu có: hàng triệu hàng triệu loài hoa, hàng triệu chim muông - mọi thứ đều dư dật. Tự nhiên không hề khổ hạnh; nó hân hoan khắp nơi - từ đại dương đến rừng thẳm. Nó ca vang khắp nơi - trong cơn gió thổi qua ngọn thông, trong tiếng chim...
Cần gì phải có hàng triệu hệ mặt trời, mỗi hệ mặt trời lại có hàng triệu ngôi sao? Dường như chẳng cần phải có nhiều đến vậy, thế nhưng phong phú là bản chất của hiện hữu, giàu có là cốt lõi của hiện hữu, và hiện hữu không tin vào nghèo khó. Hãy nhìn vào tự nhiên hiện hữu mà xem, bạn sẽ thấy tất cả những gì loài người đã làm đều đi ngược với nó.
Nỗ lực của tôi là nhằm đưa con người trở lại với bản chất tự nhiên của họ.
Tôi sẽ bị lên án. Các tôn giáo, những truyền thống, các nền đạo đức đều sẽ kết tội tôi.
Điều đó không làm tôi bất ngờ! Tôi vẫn chờ đợi nó, bởi những điều tôi nói và làm sẽ thay đổi tiến trình cốt lõi của ý thức con người.
Tôi không tin là bằng cách hành xác bạn có thể thiền định dễ dàng hơn. Tôi không tin rằng khi nhịn ăn bạn có thể thiền định được. Bạn chỉ có thể nghĩ đến thức ăn và không còn gì khác nữa; bạn sẽ mơ đến thức ăn và không gì khác. Thế nhưng khi bạn đã ăn đủ, uống đủ, bạn sẽ không còn nghĩ đến thức ăn nữa - không còn nhu cầu đó nữa. Thể xác đã được thỏa mãn hoàn toàn và nó sẽ không gây phiền hà nữa.
Sống thoải mái, sống vui không có nghĩa là đi ngược lại thiền định mà nó thực sự là nhu cầu cơ bản của thiền định. Tôi biết nhiều thầy tu khổ hạnh nhưng tôi chưa bao giờ thấy sự thông thái trong họ, tôi chưa bao giờ thấy trong sự sáng tạo trong họ, chưa bao giờ thấy trong mắt họ ánh sáng linh thiêng nào, chưa bao giờ thấy trong cử chỉ của họ một thông điệp linh thiêng không lời nào. Họ chẳng có gì cả. Đơn giản là họ đang nhịn đói - mà nhịn đói vì điều đó giúp thỏa mãn cái tôi của họ, vì càng nhịn đói là họ càng tự tra tấn mình, càng có nhiều người tôn sùng họ hơn.
Đối với tôi chuyện này cũng chỉ là một chưong điên rồ trong lịch sử loài người; và nó cần được khép lại. Đã đến lúc chúng ta mở ra một chương mới - thuận theo tự nhiên, hiện hữu và tích cực trước cuộc sống - tạo ra cầu nỗi giữa thể xác và linh hồn, không phải bức tường mà là chiếc cầu nối.
Không cần phải chiến tranh hay xung đột. Đấu tranh với chính mình bạn cũng chẳng được gì; bạn chỉ đơn giản tự hủy hoại mình dần dần. Tất cả những người được gọi là những vị thánh của các bạn hầu hết đều tâm thần, và họ đã làm cho cả nhân loại này bệnh hoạn theo họ.
Câu hỏi của bạn rất có ý nghĩa. Người ta đã nhiều lần hỏi tôi rằng: "Khắp mọi nơi người ta sùng kính những vị thầy tâm linh, thế mà tại sao ông đi đến đâu cũng bị phản đối?".
Tôi nói: "Chỉ có một điều chắc chắn: hoặc là những người đó không phải là những vị thầy tâm linh, hoặc là tôi không phải thầy tâm linh. Tôi và họ không thể cùng là tâm linh được, đó là điều chắc chắn. Về phần tôi, tôi sẽ nói là họ bệnh hoạn, chẳng có chút tâm linh nào và họ được một xã hội bệnh hoạn tôn sùng".
Đó là một cái vòng luẩn quẩn: xã hội tạo ra một vị thánh bệnh hoạn, vị thánh bệnh hoạn nọ lại tạo ra xã hội bệnh hoạn kia - và nó cứ tiếp tục như thế mãi. Tôi không dự phần vào sự bệnh hoạn - cái gọi là tâm linh này. Tôi chỉ là một con người hài lòng, viên mãn. Bạn còn muốn gì hơn? Sự linh thiêng có thể là gì hơn?
Chúng ta mong muốn mọi người được đáp ứng, được thỏa mãn, và hành trình đến hài lòng, viên mãn, giác ngộ nên bắt đầu từ thể xác. Bạn không thể bắt đầu từ một nơi nào khác cả. Bạn chỉ có thể bắt đầu từ đầu. Bạn không thể làm ngơ gốc rễ mà ngợi ca những bông hoa. Nếu gốc rễ không được chăm sóc thì hoa của bạn sẽ tàn, và bạn sẽ phải thay thế chúng bằng những bông hoa nhựa. Có xung đột nào không giữa gốc rễ và bông hoa? Nó uống cùng nguồn nước - và bạn phải bắt đầu từ gốc rễ, bởi bông hoa chỉ nở vào lúc cuối.
Nhưng với loài người thì chúng ta đã gần như điên loạn rồi. Chúng ta chưa bao giờ bận tâm đến gốc rễ, và chỉ nhắc đến những bông hoa. Chúng ta nói nhiều đến những người phi bạo lực, những người biết yêu thương - nhiều đến nỗi bạn có thể yêu được kẻ thù của mình, hàng xóm của mình. Chúng ta nói về những bông hoa nhưng không ai hứng thú với gốc rễ của nó. Vấn đề là: "Tại sao chúng ta không phải là những người biết yêu thương?".
Vấn đề không phải yêu người này hay người kia, yêu bạn bè hay kẻ thù. Vấn đề là bạn có biết yêu thương hay không? Bạn có yêu thương chính thân xác của mình hay không? Bạn đã bao giờ chạm vào thân mình với tình yêu thương tràn đầy chưa? Bạn có yêu chính mình không? Không, tất cả các tôn giáo đều dạy bạn phải ghét chính mình: bạn sai lầm và phải tu sửa lại cho đúng; bạn có tội và phải trở thành một vị thánh. Làm sao bạn yêu chính mình được? - bạn thậm chí còn không thể chấp nhận chính mình. Mà đó mới chính là gốc rễ!
Tôi sẽ dạy các bạn yêu chính mình. Và nếu bạn có thể yêu được hcính mình, vui sướng được là chính mình, tự nhiên tình yêu của bạn sẽ lan tỏa. Nó sẽ trở thành tinh hoa bao quanh bạn; bạn sẽ yêu bạn bè mình, và theo cách nào đó bạn sẽ yêu cả kẻ thù của mình nữa - bởi cũng như một người bạn định tính cho bạn, kẻ thù của bạn cũng định tính cho bạn như thế.
Tôi nhớ đến một sự kiện gần đây. Ở Ấn Độ, trước khi đất nước này có được tự do, người Hindu và Hồi giáo xung đột rất gay gắt vì người Hindu muốn đất nước thống nhất, không bị chia cắt. Như vậy sẽ có lợi cho họ vì họ là tôn giáo chiếm đa số ở Ấn Độ. Nếu Ấn Độ không bị chia cắt thì người Hồi giáo sẽ không bao giờ cầm quyền vì họ chỉ là tôn giáo chiếm đa số thứ hai.
Người Hồi giáo lại muốn có đất nước của chính họ và họ đưa ra lý do là: "Chúng tôi muốn có tiếng nói riêng, chúng tôi là một chủng tộc khác, chúng tôi không thể sống chung với họ được". Thế nhưng lý do cơ bản không phải là tiếng nói, cũng không phải văn hóa, chủng tộc, bởi họ đã sống chung suốt hai ngàn năm rồi mà có vấn đề gì đâu. Thực chất chuyện này là: nếu họ có đất nước của họ, họ sẽ là người nắm giữ quyền lực.
Người đứng đầu phong trào Ấn Độ thống nhất là Mahatma Gandhi, và người lãnh đạo phong trào tách Ấn Độ ra và thành lập một đất nước mới, Pakistan, của người Hồi giáo là Mohammed Ali Jinnah. Suốt đời họ là kẻ thù không đội trời chung của nhau.
Năm 1948 Gandhi bị bắn chết. Mohammed Ali Jinnah trở thành nhà lãnh đạo toàn quyền của Pakistan. Ông ta đang ngồi trên bãi cỏ khi người ta báo cho ông ta tin Gandhi bị ám sát. Người báo tin cho ông nghĩ rằng ông sẽ rất vui sướng - rằng kẻ thù truyền kiếp của ông ta đã chết. Thế nhưng anh này đã hết sức kinh ngạc: Jinnah buồn bã quay vào trong nhà và yêu cầu không được ai làm phiền ông. "Gandhi chết thì tôi cũng coi như chết rồi, bởi chúng tôi định tính cho nhau".
Một sự hiểu biết sâu sắc - kẻ thù cũng định nghĩa bạn, giống như người bạn định nghĩa bạn vậy. Sau đó Jinnah chỉ sống thêm một năm nữa, người ta không còn nhìn thấy ông vui vẻ như trước đây; năm cuối cuộc đời ông chỉ còn lại nỗi thiếu hụt ghê gớm... Một mối thù suốt đời là một mối quan hệ, mối quan hệ sâu sắc. Thế nên một người có hiểu biết sẽ yêu cả kẻ thù của mình - không phải vì bất kỳ một lý do tâm linh nào mà là vì một lý do đơn giản là kẻ thù của ta định nghĩa cho chính ta, là một phần trong sự hiện tồn của ta. Không có hắn ta thì chỗ trống đó không ai có thể lấp đầy được.
Vấn đề không phải ở chỗ bạn phải "yêu kẻ thù của mình" theo cách Jesus đã nói. Như thế đơn giản chỉ là vị kỷ: yêu kẻ thù của bạn vì bạn là sinh linh cao đẳng hơn, và hắn ta chỉ là một con người bình thường; vậy nên hãy yêu lấy hắn, chỉ cho hắn thấy con đường thực sự của tâm linh. Nhưng như thế chỉ là đáp ứng bản ngã của chính bạn thôi.
Tôi cũng sẽ nói: "Hãy yêu lấy hắn", nhưng không vì lý do kia. Tôi sẽ nói, "Hãy yêu hắn", vì hắn định nghĩa bạn; hắn là một phần của bạn, cũng như bạn là một phần của hắn - không chỉ bạn bè mà cả kẻ thù nữa. Điều đó không làm cho bạn "thần thánh hơn kẻ khác". Đó chỉ đơn giản là một sự hiểu biết về cách vận hành của tâm lý.
Hãy yêu chính mình. Nhưng bạn chỉ có thể yêu chính mình khi bạn vứt bỏ được ý niệm rằng mình có tội. Bạn có thể vứt bỏ ý niệm rằng mình có tội nếu bạn vứt bỏ được ý niệm về một Thượng Đế.
Nếu có Thượng Đế thì bạn vẫn là kẻ có tội; bạn không thể là gì khác được. Nếu có Thượng Đế thì bạn là kẻ có tội. Bạn bị trục xuất khỏi vương quốc của Ngài, và bạn chỉ được chấp nhận cho quay về khi bạn biết phục tùng - phục tùng đến mức bạn đánh đổi cá nhân của mình cho một Thượng Đế giả thuyết mà bạn chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nhìn thấy.
Tôn giáo của bạn không cho phép bạn yêu bản thân mình, nhưng họ lại đi rao giảng đủ điều tào lao rằng, hãy yêu kẻ thù của mình và yêu hàng xóm của mình. Nhưng bạn vẫn có thể thấy cốt lõi của chuyện này. Nếu bạn không yêu chính mình thì bạn không thể yêu được bất kỳ ai khác trên thế giới này. Năng lực tình yêu phải xuất phát từ trái tim bạn, và ở đó có một kẻ tội lỗi bị kết tội đang chờ đến giờ hành quyết trong lửa địa ngục.
Tôi từng nghe rằng, vào thời trung cổ khi con người ta, đặc biệt là phụ nữ, còn ngây thơ lắm, giản dị lắm, có những nhà truyền giáo Ki-tô đi khắp nơi hù dọa họ bằng lửa địa ngục, vẽ ra bức tranh cụ thể đến từng chi tiết nhỏ về việc họ sẽ bị tra tấn như thế nào. Và chuyện thường xảy ra là nhiều phụ nữ ngất đi ngay tại nhà thờ trong lúc nghe cha xứ giảng đạo, vì lửa địa ngục và viễn cảnh bị tra tấn khiến họ sợ chết khiếp. Lúc này thì những người phụ nữ kia còn có thể chấp nhận chính bản thân họ hay không? - Không thể nào.
Tất cả mọi tôn giáo đều đứng trên một từ duy nhất, và đó là bạn nên trở thành người như thế nào. Đó là từ 'nên' - chứ không phải là từ 'là'. Từ 'là' luôn bị lên án, và từ 'nên' được ca ngợi; và cái 'nên' trái ngược với cái 'là' của bạn.
Bạn không thể yêu chính mình, vợ bạn không thể yêu chính bản thân cô ấy - trong khi hai vợ chồng cũng phải yêu nhau. Tôi không hiểu làm sao người ta làm được chuyện đó. Bạn có thể giả vờ, nhưng về căn bản thì bạn sẽ ghét người kia, vì vợ bạn hiểu rằng bạn đnag lôi cô ấy ngày càng sâu xuống địa ngục, bạn cũng biết rằng cô ấy đang dìm bạn ngày càng sâu trong hỏa lò - thế thì các bạn làm sao mà yêu nhau nổi? Jesus rất sáng suốt. Ông ấy nói về việc phải yêu kẻ thù nhưng ông ấy không nhắc gì đến chuyện phải yêu vợ. Lạ nhỉ, lẽ ra đó là điều cần được nhắc nhở trước tiên - "Hãy yêu lấy chồng mình". Nhưng không, những điều này không hề được nhắc đến.
Các tôn giáo bấy lâu nay vẫn nói về những bông hoa; còn tôi cố thay đổi gốc rễ. Và tôi cực kỳ phản đối những bông hoa giả. Hoa thật rất đa dạng; hoa giả thì không tàn - tình yêu giả cũng không tàn. Hoa thật không tươi mãi, nó biến đổi từng giờ từng khắc. Ngày hôm nay nó còn hân hoan trong gió, trong nắng và trong mưa. Ngày mai họ đã không còn nhìn thấy nó - nó biến đi cũng kỳ diệu như lúc nó xuất hiện vậy. Tình yêu thật cũng giống như một bông hoa thật.
Thế nhưng mọi tôn giáo đều dạy bạn về một thứ tình yêu giả tạo. Và rồi họ lại phá hủy mọi cơ hội giúp bạn được biết đến một bông hoa thật. Hoa thật có hương thơm; hoa giả chẳng có gì để tô điểm cho cuộc đời ban. Nó chỉ trông giống một bông hoa nhưng nó lại không phải là bông hoa. Hoa giả thì dễ giữ lắm. Bạn chẳng cần tưới nước cho nó, cũng chẳng cần chăm bón cho gốc rễ của nó. Những bông hoa thật lại cần chút gì sáng tạo từ phía bạn. Mọi giá trị thật đều cần đến sáng tạo.
Và chỉ cần nhìn những vị thánh của bạn của bạn: không ai trong số họ có óc sáng tạo. Những phẩm chất của họ thật nực cười - người thì có thể nằm dưới mồ suốt một tuần liền, rồi bạn đào ông ta lên và ông ta vẫn sống; và ông ta trở thành một vị thánh vĩ đại. Nhưng bạn không thấy có chút đóng góp nào ở đây, không có chút sáng tạo nào trong đó. Ông ta có nằm dưới mồ bảy trăm năm thì cũng chẳng thể ảnh hưởng gì đến ai. Làm sao mà ông ta có thể trở thành một vị thánh chỉ với việc nằm dưới mồ 7 ngày, bằng cách học một kỹ thuật nén hơi thở nào dó?
Paul Brunton, một nhà tìm kiếm vĩ đại đi hết nước này đến nước khác khắp phương Đông, gặp gỡ nhiều người được tôn thờ như những vị thánh hồi đầu thế kỷ 20. Ở Ajmer, Ấn Độ, ông gặp một vị thánh Hồi giáo với khả năng móc mắt ra và để chúng treo lủng lẳng ngàoi hốc mắt - đó là khả năng duy nhất của ông ta. Và ông ta được tôn thờ rộng khắp, bởi ông ta đã làm một việc không thể!
Paul Brunton còn gặp một thầy tu già Hindu với khả năng uống tất cả các loại thuốc độc. Ông này đi triển lãm thành tựu to lớn của mình ở nhiều trường đại học - đến cả Oxford, Cambridge, Varanasi, Calcutta. Nhưng khi đến Calcutta thì một tai nạn xảy ra. Ông ta có thể giữ độc tố trong cơ thể mình và kìm chế không cho nó thấm vào máu, nhưng chỉ trong nửa giờ đồng hồ: lâu hơn thế thì không được. Cả cuộc đời ông ta đã tập luyện để làm việc này, nhưng ở Calcutta, giao thông đã đánh bại ông ta.
Bạn biết đấy, giao thông ở Ấn Độ rất tuyệt; mọi thời đại đều di chuyển trên đường phố - một chiếc xe bò, một cỗ xe ngựa, một con lừa, một chiếc xe lạc đà, rồi xe hơi, xe buýt, xe điện. Đặc biệt ở Calcutta, bạn sẽ nhìn thấy mọi thời đại cùng nhau đi trên đường. Từ thuở sơ khai khi con người mới phát minh ra xe cộ cho đến những chiếc xe hơi tân tiến nhất - mọi thứ đều sẵn có ở đây. Bạn chỉ cần đứng bên vệ đường mà xem.
Thế là ông này bị kẹt trong một vụ ùn tắc giao thông và không đến kịp nơi ông ta đã chuẩn bị trước để nôn thuốc độc ra; toàn bộ chuyện này là thế đấy. Ông ta chỉ giữ được trong nửa giờ; sau đó phải nôn ra - để thuốc độc không thấm vào máu. Nhưng ông ấy không kịp làm việc đó; thuốc độc đã đi vào máu và ông ta chết. Nhưng ông ta lại là một vị thánh nổi tiếng thế giới. Vậy ông ta đóng góp gì chứ?
Tôi không thể hiểu nổi làm sao mấy người này lại được gọi là thánh. Có lẽ người ta nên gọi họ là chuyên gia trong lĩnh vực nào đó; họ có một khả năng đặc biệt nhất định, nhưng khả năng đó chẳng dính dáng chút nào đến tâm linh cả. Bấy lâu nay bạn vẫn đang tôn thờ những thứ hoàn toàn vô nghĩa dưới vỏ bọc tâm linh. Và đằng sau những thứ vô nghĩa này là con người thực sự - đau khổ, không biết yêu, không biết nhìn. Không ai bận tâm đến người đó hay những vướng mắc của anh ta; không ai đáp ứng nhu cầu thực sự của anh ta.
Toàn bộ nỗ lực của tôi là đem đến một khởi đầu hoàn toàn mới. Chắc chắn nó sẽ tạo ra những làn sóng phản đối tôi trên khắp thế giới. Nhưng có hề gì đâu - quan trọng gì đâu!
Tôi chỉ quan tâm đến những người sẵn sàng thay đổi chiều hướng ý thức con người. Tôi sẽ chống lại người ta, tôi sẽ gây phiền nhiễu người ta, tôi sẽ khiêu khích người ta, tôi sẽ khuấy động lòng đố kỵ trong người ta. Đó là một phần trong những phương cách của tôi. Tôi đang chống lại họ thật sự. Nếu họ có chút thông minh nào thì hẳn họ sẽ nhận thấy điều đó.
Chín mươi ba chiếc Rolls Royce... nhưng tôi chưa từng nhìn lại chúng, nhìn lại chuyện đã xảy ra. Chúng không thuộc về tôi, và có hay không có chúng thì tôi cũng vẫn vui như thế. Tôi không bao giờ xuống garage mà xem chúng ra sao cả. Tôi có một người quản lý garage tên Avesh. Tôi thường nói với anh ta rằng một hôm nào đó tôi sẽ xuống đó kiểm tra, nhưng ngày đó không bao giờ đến. Tôi chưa bao giờ thấy hết toàn bộ số xe đó. Mỗi khi tôi đi dạo thì Avesh là người quyết định tôi sẽ đi bằng chiếc xe nào. Và tôi thì không quan tâm đó là chiếc nào cả.
Những chiếc xe đó đã hoàn thành mục đích của chúng. Chúng đã kích động lòng đố kỵ trên khắp nước Mĩ, trong cả giới thượng lưu ở đây. Nếu họ đủ thông minh thì thay vì trở thành kẻ thù của tôi, lẽ ra họ đã đến gặp tôi để tìm cách thoát khỏi lòng đố kỵ của mình, bởi đó là vấn đề của họ. Lòng đố kỵ là ngọn lửa sẽ thiêu đốt bạn, và thiêu đốt bạn đến quằn quại. Bạn đang nằm trong tay kẻ khác.
Tôi chỉ là một du khách đến đó, và tôi đã khiến cả nước Mĩ lúng túng. Họ có đủ tiền cơ mà; họ có thể mua nhiều Rolls Royce hơn thế nếu muốn. Thế nhưng họ không đủ can đảm để làm điều đó. Họ lên án tôi, cho rằng tôi là một kẻ tham vật chất. Và bạn sẽ phải ngạc nhiên hết sức; một vị giám mục nọ, người liên tục lên án tôi là một tên hám của, đã viết cho tôi một lá thư đề nghị rằng, "Thật phước đức nếu ông hiến tặng cho nhà thờ chúng tôi một chiếc Rolls Royce của ông. Đối với ông nó chẳng có ý nghĩa gì - chín mươi hai hay chín mươi ba chiếc cũng thế thôi - nhưng nó sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với chúng tôi". và cứ mỗi Chủ Nhật ông này lại lên án tôi. Ông ta kết tội tôi không phải vì tôi là một tên hám của mà là để che giấu lòng ghen tức của ông ta.
Các chính trị gia, người giàu, lẽ ra đã có thể tự xoay xở được - sao họ lại phải lo sợ? Tuy nhiên, nỗi lo của họ là vị du khách nọ, người thậm chí còn không có được một tờ visa hợp lệ, đã đánh bại toàn bộ giới thượng lưu; thật đau đớn! Nếu họ đủ thông minh, họ đã hiểu rằng hẳn phải có mục đích gì đó đằng sau những chiếc Rolls Royce kia. Mục đích của chúng không thể nào chỉ là để đi dạo. Để làm việc đó thì chỉ một chiếc là đủ.
Tất cả mọi việc tôi làm trong cuộc đời mình đều có mục đích. Đó là cách tôi làm cho bạn nhìn thấy những thứ bên trong bản thân mình mà bạn không ý thức được.
Nếu bạn thông minh bạn sẽ muốn thoát khỏi nó vì nó là liều thuốc độc giết chết bạn. Một lý trí đầy đố kỵ thì không biết yêu thương, không biết vui sướng, không chỉ không biết vui sướng mà còn không thể nhìn thấy một ai vui sướng cả. Loại người đó đầy rẫy trên quả đất này. Và những kẻ được gọi là thánh kia chưa từng giúp được gì cho họ. Những vị thánh của bạn bấy lâu vẫn lợi dụng bạn đấy.
Thật nực cười! Những vị thánh của bạn đang lợi dụng bạn bằng cách sống nghèo khổ, tự tra tấn mình; họ đang giúp bạn thoát khỏi cảm giác ghen tị, cảm giác tổn thương. Họ đang bảo vệ cái tôi của bạn. Mà chuyện đó không chỉ có một mặt. Chính vì thế mà tôi nói nó nực cười. Tròc hơi này thật kỳ quặc: họ đang giúp sống mãi trong đau khổ, trong điên rồ, và bạn lại giúp họ sống mãi cuộc đời hành xác, tự giết mình - một sự thông đồng của cả nhân loại để lưu lại mãi trong địa ngục.
Cộng đồng của chúng ta ở Mỹ cũng là một phương tiện. Nó đã làm công việc của nó. Nó giúp người ta ý thức được rằng, trên trái đất này cũng có vui sướng và yêu thương; bạn không cần phải đợi đến lúc lên thiên đàng. Và tôi thì không hiểu nổi... một người chưa bao giờ được hát ca nhảy múa trên cõi đời này thì làm sao sau khi lên thiên đàng anh ta lại được ban cho một cây đàn harp - anh ta sẽ làm gì với cây đàn đó? Anh ta sẽ rối tung lên! Anh ta sẽ thắc mắc đó là cái gì và mình phải làm gì với nó đây?
Chỉ có người của tôi mới biết phải làm gì, dù được ban cho loại nhạc cụ nào. Nó không chỉ là chuyện vui sướng không thôi... tất cả những thứ khác cũng vậy. Nếu ở đây cả cuộc đời bạn chỉ biết cứ hành xác, thế thì bạn định làm gì trên thiên đàng nào? Cái trò hành xác đó sẽ trở thành bản năng thứ hai của bạn mất thôi.
Tôi nhớ có một câu chuyện thế này... Có một người cao quý nọ tên là Eknath đang chuẩn bị đi hành hương cùng các môn đồ của mình. Một tên trộm khét tiếng đến gặp ông và hỏi: "Dù tôi là kẻ có tội - ông cũng biết, ai ai cũng biết tôi là một tên trộm - bỗng nhiên tôi cảm thấy một niềm khát khao mãnh liệt được tham gia chuyến hành hương của ông, nếu ông cho phép. Đã có ba mươi người đi cùng ông rồi và thêm một người nữa có lẽ cũng chẳng sao đâu nhỉ...".
Eknath nói: "Không sao cả, nhưng với một điều kiện: chuyến đi này sẽ kéo dài 9 tháng" - vì họ phải đi bộ khắp đất nước và đến tất cả các thánh địa - "trong thời gian đó anh không được ăn cắp bất kỳ thứ gì của những người đi trong đoàn của bất kỳ ai khác trong những ngôi làng chúng ta ghé qua. Anh phải bỏ nghề trong khoảng thời gian 9 tháng này. Nếu anh hứa được như vậy tôi sẽ đồng ý cho anh tham gia".
Tên trộm nói: "Tôi hứa chắc chắn là tôi sẽ không ăn cắp suốt 9 tháng tới". Thế nhưng chỉ 2-3 ngày trôi qua là đã có chuyện rồi. Xảy ra một chuyện kỳ quặc thế này: túi tiền của người này được tìm thấy trong hành lý của người khác, áo ấm của người nọ lại nằm trong giỏ của người kia! Thật lạ lùng, đồ đạc hành lý của người ta bị hoán đổi loạn hết cả lên.
Cuối cùng, đêm nọ, Eknath quyết định thức xem chuyện gì đang diễn ra, vì cứ như thế này thì thật phiền phức. Sáng nào mọi người cũng phải lục tung mọi thứ để tìm cho ra đồ của mình; lúc nào họ cũng tìm ra được, nhưng ai cũng bực bội vì chuyện này. Eknath nghĩ tên trộm đó chính là thủ phạm - và đúng là như vậy. Nửa đêm hắn ta thức dậy và đi tráo đồ đạc của mọi người. Eknath bắt quả tang hắn. Ông nói, "Anh đã hứa là không trộm cắp trong thời gian này cơ mà".
Hắn đáp: "Tôi vẫn giữ lời hứa đấy chứ, tôi có trộm cắp gì đâu. Nhưng tôi không có hứa là sẽ không tráo đồ của người ta - như thế đâu phải là trộm cắp. Tôi có lấy đồ của ai bỏ vào túi mình đâu nào. Tôi làm thế này là để luyện tập thôi... chứ không thì sau chín tháng tôi sẽ quên nghề của mình mất. Hơn nữa, tôi không ngủ được nếu không làm gì đó. Thói quen từ trước tới giờ rồi".
Eknath nói: "Tôi hiểu khó khăn của anh, nhưng anh cũng cần phải hiểu khó khăn của mình nữa: sáng nào mọi người ai cũng bực bội vì chuyện này - nào là túi tiền biến mất, nào là thất lạc chiếc áo, nào là không tìm thấy cái chăn. Và sáng nào chúng ta cũng phải mất hàng tiếng đồng hồ để sắp xếp lại đồ đạc hành lý".
Nhưng tên trộm lý luận rằng: "Các ông phải chấp nhận thôi. Vì tôi có hứa là sẽ không làm thế đâu. Mà tôi cũng chẳng làm gì quá đáng cả. Mỗi đêm tôi chỉ làm có một tiếng đồng hồ, sau đó tôi ngủ được ngon giấc".
Mỗi người tự hành hạ mình trong suốt cuộc đời - bạn nghĩ liệu người đó có vui sướng nổi trên thiên đàng hay không? Anh ta hẳn sẽ quên mất cách cười, quên mất ý nghĩa của sung sướng. Không, tôi xin nói với các bạn là toàn bộ quá khứ của nhân loại thật tệ hại, điên rồ; nó đã tạo ra thứ tâm linh có một tên gọi khác là tâm thần phân liệt. Tôi phải đấu tranh chống lại nó, dù phải trả giá thế nào.
Phải có ai đó xung phong mà nói cho người ta biết rằng: "Các người đã đi sai đường rồi. Bằng chứng chính là sự khổ sở của các người, không cần thêm bằng chứng nào khác".
Xem tiếp Chương 9 – Quay về Mục lục