Osho
– Những cuốn sách tôi yêu - Chương 5
1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregan, USA
Bây giờ công
việc lại bắt đầu.
“Athato
brahman jigyasa – bây giờ là sự tìm hiểu điều tối thượng…” đó là điều mà
Badrayana bắt đầu tuyệt tác của mình, có lẽ là cuốn tầm cỡ nhất. Sách của
Badrayana là cuốn đầu tiên mà hôm nay tôi sẽ nói đến. Ông ấy bắt đầu tuyệt tác
của mình, BRAHMAN SUTRAS (KINH BRAHMAN) bằng câu này: “Bây giờ sự tìm hiểu điều
tối thượng bắt đầu.” Đó là cách mà mọi câu kinh phương Đông bắt đầu, luôn luôn
bởi “Bây giờ… athato,” không bao giờ khác được.
Badryana là một
trong những người phải bị hiểu sai, vì lý do đơn giản rằng ông ấy quá nghiêm trọng.
Nhà huyền môn không nên quá nghiêm trọng, đó không phải là phẩm chất tốt. Nhưng
ông ấy là người Bà la môn sống hàng nghìn năm trước, sống giữa những người Bà
la môn, thuyết giảng với những người Bà la môn, và người Bà la môn là những người
nghiêm trọng nhất thế gian. Bạn có biết là Ấn Độ không có những câu chuyện hài
không? Một đất nước rộng lớn như vậy mà không có những câu chuyện hài thì có
quá kỳ lạ không? Một lịch sử dài như vậy mà lại không có những câu chuyện hài!
Người Bà la môn không thể hài hước bởi vì hài hước có vẻ là điều quá trần tục,
và họ là những người thánh thiện.
Tôi có thể hiểu
và tha thứ cho Badrayana, nhưng tôi không thể quên nhắc lại rằng ông ấy cũng có
một chút nghiêm trọng. Tôi đang do dự xem có tính đến ông trong danh sách các
cuốn sách của tôi hay không. Do dự chỉ bởi vì sự nghiêm trọng của ông. Tôi
không do dự về MIRDAD; tôi không do dự về tất cả, kể cả cuốn RUBAIYAT của Omar
Khayyam. Nhưng tôi đã do dự về Badrayana và cuốn sách của ông, KINH BRAHMAN, là
cuốn sách mà ở phương Đông được coi là một trong những cuốn sách vĩ đại nhất –
và chắc chắn như vậy.
Tôi đã đọc
nhiều cuốn sách nghiêm trọng, ngay cả cuốn TẤT CẢ VÀ MỌI THỨ (ALL AND
EVERYTHING) của vị thánh tinh quái George Gurdjieff, nhưng không là gì khi so
sánh với cuốn KINH BRAHMAN của Badrayana về sự nghiêm trọng. Ông ấy là tột đỉnh
nghiêm trọng. Chao ôi, nếu ông ấy có thể cười được một chút!
Người Cơ đốc
tin rằng Jesus không bao giờ cười. Tôi bác bỏ điều đó. Tôi tuyệt đối bác bỏ điều
đó! Về Badrayana cũng có thể như vậy; có thể ông ấy chưa bao giờ cười. Ông ấy
quá nghiêm trọng, tuyệt đối nghiêm trọng. Bạn không thể sáng tạo ra cuốn sách
nghiêm trọng hơn. Hàng nghìn nhận xét về nó đã được viết để giải thích ông ấy
ngụ ý gì.
Sự thật không
cần bình luận, nhưng khi bạn cho nó cái vẻ bề ngoài nghiêm trọng, một cách tự
nhiên các nhà bình luận xuất hiện, và các nhà bình luận luôn phục vụ quỷ dữ. Đó
vẫn là một cuốn sách tuyệt vời; mặc dù tính nghiêm trọng của Badrayana cũng rất
đáng kể. Badrayana đạt tới những đỉnh cao nhất, tới điều tối thượng bởi rất nhạy
bén, rất hiệu quả, tính hiệu quả của nhà khoa học.
Ở Ấn Độ, người
được gọi là acharya, Bậc Thầy chỉ nếu người đó đã viết bình luận về ba vấn đề:
đầu tiên, một trăm lẻ tám UPANISHAD; thứ hai, SHRIMAD BHAGAVADGITA, những bài
ca thiên đường của Krishna; thứ ba, quan trọng hơn tất cả, KINH BRAHMAN của
Badrayana. Tôi chưa bao giờ nói về ông ấy. Tôi được gọi là acharya trong nhiều
năm và mọi người thường hỏi tôi rằng tôi đã viết tất cả những bình luận – GITA,
các UPANISHAD và KINH BRAHMAN. Tôi đã cười và nói, “Tôi chỉ kể những câu chuyện
hài, tôi không viết bất kỳ bình luận nào. Tôi được gọi là acharay chỉ là chuyện
hài hước, đừng coi đó là điều nghiêm trọng”.
KINH BRAHMAN.
Brahman được biết đến và được hiểu như là Thượng đế, nhưng không phải như vậy.
Brahman không có gì liên quan đến ý tưởng Cơ đốc về việc Thượng đế tạo ra thế
giới bốn nghìn lẻ bốn năm trước Jesus Christ. Khi tôi nói điều đó, tôi nghĩ
Badryana đã nghe, có lẽ ông ấy đã cười, có lẽ ông ấy đã mất đi sự nghiêm trọng
của mình. Brahman không có nghĩa là Thượng đế; Brahman có nghĩa là lòng sùng đạo,
điều linh thiêng lan tỏa khắp tồn tại… cái toàn bộ, sự linh thiêng của cái toàn
bộ.
Kinh có nghĩa
đơn giản là một lối mòn. Bạn không thể nói nhiều về Brahman; dù bạn có nói gì
thì nó cũng chỉ là một lối mòn, một sự gợi ý. Nhưng sự gợi ý có thể trở thành
cây cầu, lối mòn có thể trở thành cây cầu, và Badrayana đã thiết lập cây cầu
bên trong những câu kinh của mình.
Tôi yêu cuốn
sách mặc dù tính nghiêm trọng của Badrayana. Tôi rất ghét tính nghiêm trọng đến
mức tôi phải nói, “Mặc dù tính nghiêm trọng của Badrayana.” Tôi vẫn yêu ông ấy
bởi việc sáng tạo ra một trong những cuốn sách ý nghĩa nhất trên thế giới. ‘Các
kinh thánh’ còn rất xa mới so được với KINH THƯ của Badrayana, thậm chí chúng
không thể gần với nó.
Thứ hai: KINH
BHAKTI (BHAKTI SUTRAS) của Narada. Narada đối nghịch với Badrayana, và tôi
thích đặt những sự đối nghịch cùng nhau. Tôi muốn đặt Narada và Badrayana trong
cùng một căn phòng và thích thú bất kỳ điều gì xảy ra giữa họ. Narada luôn mang
ektara, một loại nhạc cụ chỉ có một dây – ek có nghĩa là một, và tara có nghĩa
là dây đàn. Narada luôn mang và chơi nó, hát ca và nhảy múa. Badrayana hẳn sẽ
không bao giờ tha thứ cho điều đó. Tôi có thể tha thứ mọi dạng người. Badrayana
đã la hét, đã gào lên với Narada. Narada không phải là dạng người sẽ nghe
Badrayana; ông ấy sẽ tiếp tục chơi, ca hát còn ồn ào hơn để khiêu khích
Badrayana. Tôi thích thú nhìn cả hai trong cùng một căn phòng. Chính vì vậy mà
cuốn sách thứ hai tôi chọn là cuốn KINH BHAKTI của Narada.
Những câu
kinh của ông ấy bắt đầu với “Athato bhakti jigyasa – bây giờ là sự tìm hiểu về
tình yêu…” Tìm hiểu tình yêu là sự khám phá vĩ đại nhất, là câu hỏi lớn lao nhất.
Mọi thứ khác đều không đủ, ngay cả năng lượng nguyên tử. Bạn có thể là nhà khoa
học cỡ như Albert Einstein, nhưng bạn không biết câu hỏi thực sự là gì nếu bạn
không yêu. Và không chỉ yêu mà là yêu cộng với nhận biết… thế rồi điều đó trở
thành câu hỏi về tình yêu, một công việc khó khăn nhất trên thế gian.
Hãy để tôi nhắc
lại, đó là công việc khó khăn nhất trên thế gian – yêu với nhận biết. Mọi người
rơi vào yêu; mọi người trở nên vô thức trong tình yêu. Tình yêu của họ chỉ là vấn
đề sinh học, nó là lực hấp dẫn. Họ bị kéo vào tâm trái đất. Nhưng Narada đang
nói về tình yêu hoàn toàn khác: tình yêu như là thiền, như là nhận biết. Hoặc với
những thuật ngữ khoa học, tình yêu như là sự bay bổng, ngược với sự hút xuống.
Để lực hấp dẫn lại cho những nấm mồ; hãy dâng lên, hãy bay lên! Và khi bạn bắt
đầu bay lên tới tình yêu, bay tới những ngôi sao, đó là athato bhakti jigyasa.
Tại sao tất cả
các bạn lại nhìn lo lắng? Tôi yêu những quỷ dữ – hãy để chúng làm việc, hãy để
chúng gây ra nhiều ồn ào nhất có thể. Với tôi, chúng không thể quấy nhiễu tôi,
và về phía bạn thì bạn luôn bị quấy nhiễu, chúng có thể làm gì hơn nữa? Cho nên
mọi thứ đều tuyệt vời, điều đó nên là vậy.
Tôi vô cùng
yêu cuốn sách của Narada. Tôi đã nói về nó, nhưng không bằng tiếng Anh, bởi vì
tiếng Anh không phải là ngôn ngữ của tôi, và hơn nữa nó cũng rất khoa học, toán
học, hiện đại. Tôi đã nói về Narada bằng tiếng Hindi, bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, mà với
nó tôi có thể hát ca dễ dàng hơn. Nó gần với trái tim tôi hơn.
Một trong những
vị giáo sư của tôi từng nói với tôi, “Bạn không thể yêu bằng ngôn ngữ nước
ngoài, và bạn cũng không thể đấu tranh nữa.”
Khi đấu tranh
người ta muốn nói bằng ngôn ngữ của trái tim. Cũng tương tự như vậy, khi yêu và
còn nhiều hơn thế, bởi vì tình yêu cầu độ sâu sắc hơn.
Khi tôi nói
tiếng Anh, tôi buộc phải nói sai bởi vì đó là công việc kép. Tôi vẫn nói bằng
tiếng Hindi, sau đó dịch sang tiếng Anh. Đó là công việc khó khăn. Nói trực tiếp
bằng tiếng Anh đã không xảy ra với tôi, cám ơn Thượng đế! Nên nhớ, Thượng đế
không tồn tại; ngài được tạo ra chỉ để chúng ta có thể cám ơn ai đó. Tôi hy vọng
ai đó sẽ dịch những gì tôi đã nói về Narada.
Tôi đã nói
nhiều vấn đề bằng tiếng Hindi mà tôi đã không nói bằng tiếng Anh, vì không cần
thiết, bởi vì đó là điều không thể. Và ngược lại cũng đúng: tôi đã nói nhiều vấn
đề bằng tiếng Anh mà không thể nói bằng tiếng Hindi. Công việc của tôi có một
chút kỳ lạ. Khi tất cả những cuốn sách của tôi được dịch từ tiếng Hindi sang tiếng
Anh và từ tiếng Anh sang tiếng Hindi, bạn sẽ còn lúng túng hơn, bối rối hơn trước
đó – và bạn sẽ cười ngất. Cho dù tôi có trong thân thể hay không thì cũng không
thành vấn đề; tôi sẽ cười vang, tôi hứa điều đó, cho dù tôi ở bất kỳ đâu! Tôi
buộc phải ở đâu đó trong vũ trụ. Nhìn thấy bạn bối rối, lúng túng, bạn lắc đầu,
không có khả năng tin, bởi vì tôi đã nói bằng hai ngôn ngữ đó theo những khía cạnh
khác nhau… tôi chỉ chọn nói bằng tiếng Anh bởi vì có khía cạnh mà nó không thể
biểu đạt bằng tiếng Hindi.
Cuốn thứ ba
là KINH YOGA ( YOGA SUTRAS) của Patanjali. Badrayana quá nghiêm trọng, Narada lại
quá không nghiêm trọng. Patanjali ở trung gian, chính xác ở trung gian: không
nghiêm trọng hoặc không phi-nghiêm trọng, đó chính là tinh thần của nhà khoa học.
Tôi đã giảng về mười tập sách của Patanjali, cho nên không cần thiết giảng về
chúng để nói về ông. Sau mười tập, nói một cái gì đó thêm, bổ sung một cái gì
đó là điều khó khăn. Chỉ duy nhất một điều là, tôi yêu con người đó.
Thứ tư:
Kabir, NHỮNG BÀI CA CỦA KABIR (THE SONGS OF KABIR). Không có gì giống như vậy tồn
tại trên thế gian. Kabir là vẻ đẹp không thể tin. Là một người đàn ông thiếu
giáo dục, sinh ra bởi người thợ dệt vải – không ai biết người đó – mẹ ông để
ông lại bên bờ sông Hằng. Chắc ông ấy phải là đứa trẻ bất hợp pháp. Vì điều đó
không đủ để trở nên hợp pháp; chắc chắn ông ấy là bất hợp pháp, nhưng ông ấy ra
đời bởi tình yêu, và tình yêu là luật thực sự. Tôi cũng đã nói nhiều về Kabir,
cho nên không cần thiết bổ sung thêm bất kỳ điều gì ngoại trừ việc nói đi nói lại,
“Kabir, tôi yêu ông như tôi chưa từng yêu bất kỳ người đàn ông nào.”
Con số của
tôi vẫn còn đúng chứ?
“Đúng, thưa
Osho.”
Điều đó thật
tuyệt. Các quỷ dữ không thể quấy rối tôi!
Thứ năm: Bây
giờ tôi mang đến một người phụ nữ. Tôi đã nghĩ nhiều đến việc mang một người phụ
nữ đến nhưng những người đàn ông vẫn đang đứng ở thềm cửa – rất là bất lịch sự!
– và họ sẽ không cho phép người phụ nữ vào. Và người phụ nữ đó không biết thu xếp
thế nào mà lại vào được… Chúa ơi, người phụ nữ mới kỳ diệu làm sao! Bà
Blah-Blah Blavatsky (Blavatsky Ba hoa-Ba hoa). Đó là cách tôi luôn gọi
Blavatsky: Blah-Blah. Bà ấy rất giỏi viết ba hoa – viết mọi thứ về không cái
gì, việc bé xé ra to. Và tôi biết bà ấy sẽ là người phụ nữ đầu tiên vào. Bà là
người phụ nữ mạnh mẽ. Không biết làm thế nào mà bà ấy đẩy tất cả những
Patanjali, Kabir, Badrayana sang một bên và bước vào cùng với bảy tập HỌC THUYẾT
BÍ MẬT (THE SECRET OF DOCTRINE). Đó là cuốn sách thứ năm của tôi. Đó gần như là
bộ bách khoa toàn thư, ENCYCLOPEDIA ESOTERICA. Tôi nghĩ không ai có thể cạnh
tranh với Blavatsky về vấn đề thuyết bí truyền – tất nhiên là trừ tôi; tôi có
thể viết bảy trăm tập. Chính vì vậy mà tôi đã tránh nói về HỌC THUYẾT BÍ MẬT: bởi
vì nếu tôi nói về bảy tập HỌC THUYẾT BÍ MẬT, nếu trời phù hộ tôi sẽ cho ra bảy
trăm tập, không ít hơn thế.
Người ta đã
nói với tôi rằng tôi đã nói ba trăm ba mươi sáu cuốn sách. Chúa ơi! Chúa nhân từ
– nhân từ bởi vì tôi không phải đọc chúng. Tôi không đọc bất kỳ cuốn nào trong
chúng. Nhưng Blavatsky ngay lập tức đã làm một cái gì đó từ đó. Đó là điều tôi
gọi là thuyết bí truyền. Ba trăm ba mươi sáu: ba-ba-sáu, điều đó có nghĩa ba cộng
với ba bằng sáu… sáu mươi-sáu; sáu cộng với sáu bằng mười hai… một cộng với hai
lại bằng ba! Thời điểm bạn đến với ba thì bạn không thể dừng là người bí truyền;
người đó có chìa khóa. Người bí truyền sẽ mở những ô cửa mà bạn chưa bao giờ tưởng
tượng. Ba là đủ để mở tất cả những ô cửa, dù có khóa hay không.
Blavatsky, một
người phụ nữ tội nghiệp – tôi thương xót bà và tôi cũng yêu bà, mặc dù khuôn mặt
bà không đáng yêu, thậm chí không thể ưu thích, chứ nói gì đến yêu! Khuôn mặt
bà có thể dùng để dọa trẻ con khi chúng nghịch ngợm. Blavatsky có khuôn mặt rất
xấu – nhưng tôi lại thương cảm cho người phụ nữ đó: trong thế giới đàn ông, được
tạo ra bởi đàn ông, bị thống trị bởi đàn ông, bà là người phụ nữ duy nhất khẳng
định, thống trị, và bắt đầu tôn giáo đầu tiên, mà chưa từng bởi bất kỳ người phụ
nữ nào… Thuyết thần trí. Bà đã cạnh tranh với Phật, Zarathustra, Mohammed và
tôi cám ơn bà vì điều đó. Cần một người nào đó để thực hiện điều đó. Người đàn
ông phải được đặt vào vị trí của mình. Tôi cảm ơn bà vì điều đó.
HỌC THUYẾT BÍ
MẬT, mặc dù tràn ngập chuyện phiếm bí truyền, nhưng cũng có nhiều viên kim
cương đẹp và nhiều bông sen. Có nhiều rác rưởi trong nó bởi vì bà là người sưu
tầm. Bà không ngừng sưu tầm mọi thứ rác rưởi từ mọi nơi có thể, không bận tâm
xem là nó có ích hay không. Bà ấy vĩ đại ở chỗ, bà đã đặt mọi thứ vô nghĩa, vô
dụng theo lối hệ thống. Một người phụ nữ rất hệ thống. Nhưng cũng có một vài điều
– thật buồn khi nói chỉ có một vài – viên kim cương đây đó.
Về toàn bộ cuốn
sách thì không giá trị gì nhiều. Tôi đang bao gồm nó chỉ để một số ít phụ nữ được
bao gồm trong danh sách của tôi, và tôi không phải là người sô vanh giống đực.
Tôi không phải như vậy. Có thể tôi là người sô vanh giống cái, nhưng không bao
giờ là sô vanh giống đực cả.
Thứ sáu, NHỮNG
BÀI CA CỦA MEERA (THE SONGS OF MEERA). Sau Blavatsky tôi phải tính đến Meera chỉ
để làm cho mọi thứ lại trở nên đẹp và cân bằng. Blavatsky rất nặng và sẽ phải
tính một số người phụ nữa để cân bằng với bà. Tôi sẽ thực hiện điều đó. Thứ sáu
là NHỮNG BÀI CA của Meera; chúng là những bài ca đẹp nhất được ca lên bởi bất kỳ
người đàn ông hay đàn bà nào. Dịch chúng là điều không thể.
Meera nói:
“main to prem divani – tôi điên khùng trong tình yêu, yêu quá điên khùng đến mức
tôi là kẻ điên, điên, điên!” Có lẽ điều này sẽ trao cho bạn một chút gợi ý về dạng
những bài ca mà bà đã ca lên. Bà là công chúa, nữ hoàng, nhưng bà đã từ bỏ lâu
đài để trở thành người khất thực trên đường phố. Chơi đàn veena, bà đã nhảy múa
nơi phố chợ, từ làng này tới làng kia, từ phố thị này tới phố thị khác, từ
thành phố này tới thành phố kia, bà ca hát bằng tất cả trái tim mình, bà hoàn
toàn rót mình vào. Tôi đã nói về Meera bằng tiếng Hindi; vào một ngày một kẻ
điên nào đó có thể dịch những điều tôi đã nói.
Thứ bảy: Người
phụ nữ khác. Tôi đang cố cân bằng Blavatsky Ba hoa-Ba hoa nặng ký đó. Bà ấy thực
sự nặng, nặng theo nghĩa đen, chắc bà ấy phải nặng tới một trăm rưởi cân! Một
người phụ nữ nặng một trăm rưởi cân! Hẳn bà ấy chỉ cần một tích tắc để quẳng lực
sĩ Muhammad Ali của bạn đi. Chắc bà ấy sẽ đè nát người võ sĩ vĩ đại nhất dưới
chân mình mà không còn lại vết tích. Một trăm rưởi cân – một người phụ nữ thực
sự! Bà ấy không thể tìm ra người yêu, mà chỉ có những người theo, điều đó không
có gì ngạc nhiên. Một cách tự nhiên, rõ ràng bạn không thể yêu một người phụ nữ
như vậy. Nếu bà ấy ép bạn, bạn chỉ có thể theo. Cuốn thứ bảy, NHỮNG BÀI CA CỦA
SAHAJO (THE SONGS OF SAHAJO) để cân bằng với Blavatsky.
Người phụ nữ
khác, Sahajo. Ngay cả cái tên cũng thi vị, nó có nghĩa ‘cốt lõi tự nhiên’. Tôi
đã giảng về Sahajo, cũng bằng tiếng Hindi bởi vì tiếng Anh không cho phép tôi
quá thi vị. Tôi không nhìn thấy tiếng Anh mang nhiều chất thi ca, và những gì
tôi nhìn dưới góc độ thi ca thì lại rất phi thi ca, và tôi tự hỏi tại sao không
có ai nổi dậy chống lại điều đó. Tại sao lại không có nhiều người bắt đầu tiếng
Anh lại từ đầu theo lối thi ca? Nó trở nên ngày càng giống ngôn ngữ của nhà
khoa học, của kỹ thuật viên, hay tốt hơn là của nhà công nghệ. Đó là điều không
may. Chỉ có thể hy vọng rằng vào một ngày những gì tôi đã nói về Sahajo sẽ được
biết đến rộng rãi trên thế giới.
Thứ tám: Người
phụ nữ khác, bởi vì tôi vẫn chưa cân bằng được với nhà vô địch hạng nặng,
Blavatsky Ba hoa-Ba hoa. Người phụ nữ này sẽ thực hiện điều đó. Bà ấy là vị
Sufi; tên của bà là Rabiya al-Adabiya. Al-Adabiya là ‘từ ngôi làng của
Adabiya’. Rabiya là tên của bà, al-Adabiya là địa chỉ của bà. Đó là cách mà các
vị Sufi đặt tên cho bà: Rabiya al-Adabiya. Ngôi làng trở thành chính Mecca khi
Rabiya vẫn còn sống. Những người du hành trên khắp thế giới, những người tìm kiếm
từ mọi nơi, đã tìm đến căn lều của Rabiya. Bà ấy thực sự là nhà huyền môn dữ tợn;
với chiếc búa trong tay, bà có thể đập vỡ sọ bất kỳ ai. Thực tế bà đã đập vỡ rất
nhiều hộp sọ và tìm ra điều cốt lõi ẩn giấu.
Có một lần,
Hassan đã đến với sự tìm kiếm, truy tìm của bà. Một buổi sáng, trong lúc đang
cùng bà, ông ấy đã yêu cầu kinh Koran cho buổi cầu nguyện sáng. Rabiya đưa cho
ông ấy cuốn sách của mình. Hasan đã thất kinh; ông ấy nói, “Điều này có thể bị
kết án. Ai đã thực hiện điều này?” Rabiya đã sửa lại kinh Koran! Bà ấy đã xóa
đi nhiều chữ ở nhiều chỗ. Thậm chí bà ấy đã cắt bỏ nhiều đoạn. Hassan nói, “Điều
này không được phép. Kinh Koran không thể bị biên tập. Ai có thể biên tập nhà
tiên tri – sứ giả cuối cùng của Thượng đế?” Chính vì vậy mà những người Hồi
giáo đã gọi ông ấy là vị sứ giả cuối cùng – bởi vì sẽ không còn vị sứ giả nào
sau Mohammed, cho nên ai có thể sửa lời của ông ấy? Ông ấy chính xác, và không
thể chỉnh sửa.
Rabiya đã cười
vang và nói, “Tôi không quan tâm đến truyền thống. Tôi đã trực diện với Thượng
đế, và tôi đã thay đổi cuốn sách dựa theo trải nghiệm của tôi. Đây là cuốn sách
của tôi,” bà ấy tiếp, “ông không thể đưa ra sự phản đối này. Đó là cuốn kinh của
tôi. Ông nên cám ơn rằng tôi được phép thực hiện điều đó. Tôi phải thực hiện bởi
trải nghiệm của mình, mà không bởi trải nghiệm của ai khác.”
Đây là
Rabiya, một người phụ nữ không thể tin. Tôi tính bà ấy vào danh sách của tôi.
Bà ấy đủ để đặt Bà Blavatsky vào vị trí của mình. Những câu nói của Rabiya
không được bà viết, mà là những ghi chép của các môn đệ, giống như Devageet.
Rabiya chắc đã nói một điều đó ngoài nội dung – không ai có thể định rõ nội
dung nào; đột nhiên bà nói một cái gì đó và nó được ghi lại. Cho nên có những
giai thoại liên quan đến và có những giai thoại mà chính cuộc đời bà đã trở
thành. Tôi yêu điều đó.
Meera đẹp,
nhưng không có vị mặn, vị ngọt. Rabiya rất đậm chất muối. Bạn biết đấy, tôi mắc
bệnh đái đường, và tôi không thể ăn Meera nhiều – Devaraj sẽ không cho phép điều
đó. Nhưng Rabiya thì không sao, tôi có thể ăn nhiều muối như tôi muốn. Thực tế,
tôi ghét đường, và tôi còn ghét những thứ rất ngọt, đường nhân tạo đặc biệt gây
ra bệnh đái đường – nhưng tôi thích muối.
Jesus đã nói
với các môn đệ của mình: Các bạn là muối của đất. Tôi có thể nói về Rabiya:
Rabiya, bà là muối của tất cả những người phụ nữ đã tồn tại và sẽ tồn tại trên
trái đất.
Thứ chín: Nanak,
người thiết lập truyền thống Sikh, những bài ca của ông. Vào thời của mình ông
đã đi lang thang khắp trong thế giới chưa biết cùng với chỉ một người theo là
Mardana. Mardana có nghĩa là mạnh mẽ – ‘con người thực sự dũng cảm’. Để trở
thành người theo thì con người phải dũng cảm. Nanak thường ca hát trong lúc
Mardana chơi đàn sitar, và đó là cách họ lang thang khắp thế gian để lan tỏa
hương thơm của điều tối thượng. Những bài ca của ông rất đẹp, chúng làm tôi rơi
lệ. Chỉ bởi những bài ca của ông mà ngôn ngữ mới được tạo ra. Ông ấy không nghe
bất kỳ ngữ pháp nào, bất kỳ luật, quy định ngôn ngữ nào, ông ấy đã tạo ra tiếng
Punjabi bởi những bài ca của mình. Đó là ngôn ngữ cực kỳ đanh thép; giống như
lưỡi gươm bén nhọn.
Thứ mười. Tôi
đã luôn muốn nói về Shankaracharya – vị đầu tiên, chứ không phải vị hiện tại –
Shakaracharya nguyên thủy, con người Shankaracharya. Tôi đã quyết định nói về
cuốn sách nổi tiếng của ông, VIVEK CHUDAMANI – viên ngọc quý về nhận biết. Tại
thời điểm cuối cùng… bạn biết tôi là một kẻ điên khùng; tại thời điểm cuối cùng
tôi đã quyết định không nói về nó. Lý do đơn giản: cuốn sách nhiều logic hơn
tình yêu, và tôi sẽ phải chịu đựng thứ logic đó. Nó không hề mỏng. Nó là một cuốn
sách dày và tôi sẽ giảng về nó suốt tám tháng. Đó đã là một hành trình dài và tốt
hơn là hoãn lại, cho nên tôi đã quyết định không nói về nó. Nhưng nó phải được
tính trong những cuốn sách vĩ đại mà tôi đang điểm.
VIVEK
CHUDAMANI của Shankaracharya, tất nhiên có những viên kim cương, những bông
hoa, những ngôi sao chỗ này chỗ kia. Nhưng trong nó cũng có rất nhiều rác rưởi
Bà la môn, một lớp rác rất dày, tôi không thể chịu đựng được điều đó. Nhưng cuốn
sách rất tuyệt vời – bạn không thể bỏ qua những viên kim cương của mình chỉ vì
có quá nhiều những viên đá và bùn bám quanh.
Thứ mười một,
và là cuốn cuối cùng trong loạt sách: KORAN của Hazart Mohammed. Kinh Koran
không phải là cuốn sách để đọc mà là cuốn sách để hát ca. Nếu bạn đọc nó bạn sẽ
lỡ nó. Nếu bạn ca nó, bạn có thể nhận ra nó nếu trời phù hộ.
Kinh Koran
không được viết bởi vị học giả hay nhà triết học. Mohammed tuyệt đối thất học,
thậm chí ông ấy không thể tự ký tên mình, nhưng tinh thần Thượng đế đã chiếm hữu
ông ấy. Vì sự hồn nhiên của mình mà ông đã được chọn và bắt đầu bài ca, và bài
ca đó là kinh KORAN.
Tôi không hiểu
tiếng Ả rập, nhưng tôi hiểu kinh KORAN bởi vì tôi có thể hiểu nhịp điệu và vẻ đẹp
của nhịp điệu, của âm thanh Ả rập. Ai quan tâm đến ý nghĩa! Khi bạn nhìn thấy
bông hoa bạn có hỏi, “Điều đó có nghĩa gì?”
Chỉ bông hoa là đủ. Khi bạn nhìn thấy ngọn lửa bạn có hỏi, “Ý nghĩa của
nó là gì?” Chỉ ngọn lửa là đủ. Vẻ đẹp của nó là ý nghĩa của nó. Chính sự vô
nghĩa của nó, nếu có nhịp điệu, thì lại ý nghĩa.
Đó là trường
hợp kinh KORAN, và tôi biết ơn rằng tôi được Thượng đế cho phép – và nên nhớ là
không có Thượng đế, đây chỉ là sự biểu cảm. Không có ai đang cho phép tôi.
Inshallah, cám Thượng đế đã cho phép tôi kết thúc loạt bài này cùng kinh KORAN,
một cuốn sách quan trọng nhất, vô nghĩa nhất, đẹp nhất nhưng cũng là cuốn sách
phi logic nhất trong toàn bộ lịch sử nhân loại.
Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục lục