Thầy sẽ mô tả điều tinh tuý của tôn giáo hay triết lí của thầy
thế nào? Nó vẫn như cũ hay là nó đã tiến hoá trong những năm qua? Ngày nay nó
có khác không, sau những kinh nghiệm bao la và gây chấn động của thầy?
Điều đầu tiên:
Tôi không có triết lí, nhưng tôi có khái niệm hoàn toàn khác về cuộc sống. Tôi
gọi nó là `philosia' 'kiến sinh'.
Triết lí không
phải là việc dịch đúng cho điều hàng thế kỉ ở Ấn Độ chúng ta đã gọi là
'darshan', nó là việc dịch sai. Triết lí có nghĩa là suy nghĩ, còn darshan nghĩa
là nhìn, kiến. Người mù nghĩ về ánh sáng, và người có mắt thấy ánh sáng.
Ở Ấn Độ, triết
lí chưa hề tồn tại, bởi vì chúng ta chưa hề tin rằng bạn có thể nghĩ về chân
lí. Bạn có thể nhận ra nó, bạn có thể thấy nó, bạn có thể trở thành nó, bạn có
thể nở hoa trong thế giới của chân lí. Nhưng không có cách nào để nghĩ về nó cả.
Suy nghĩ bị hàm
chứa vào tâm trí, còn bạn ở trên cao hơn tâm trí nhiều. Bạn là linh hồn. Tâm
trí chỉ có thể nghĩ về những thứ nó biết; đó là cái vòng luẩn quẩn. Tâm trí
không thể nghĩ về cái gì nó không biết. Không có cách nào.
Đây là lí do tại
sao ở phương Đông chúng ta chưa bao giờ tin vào suy nghĩ, vào tâm trí. Ngược lại,
việc tìm kiếm của chúng ta đã là về trạng thái vô trí, vô suy nghĩ, trạng thái
im lặng. Cũng kì lạ, triết lí là suy nghĩ, còn kiến sinh là vô suy nghĩ. Chúng
là trái ngược.
Khi mọi suy
nghĩ biến mất và bạn đơn giản là người biết, nhân chứng, nhân chứng về cái
không, người biết về cái không, đó là khoảnh khắc của cách mạng vĩ đại khi con
người trở thành một Phật Gautam. Bởi vì khi không có gì để biết, năng lượng của
bạn về việc biết quay một trăm tám mươi độ vào bản thân bạn, và lần đầu tiên bạn
hiểu bạn là ai.
Cho nên đây là
điều đầu tiên tôi muốn nói: tôi không có triết lí nào. Tôi có kiến sinh, và tôi
dạy mọi người của tôi cách không nghĩ và chỉ trong trạng thái vô trí. Nói cách
khác, là thiền nhân, không là người nghĩ. Và trong thiền chúng ta đã nhận ra điều
tinh tuý của cuộc sống của chúng ta, và điều tinh túy đó là tinh túy của toàn
thể sự tồn tại.
Khác biệt lớn
lao nhất giữa phương Đông và phương Tây là ở chỗ phương Tây chưa bao giờ nhận
ra chân lí bởi vì nó đã đi trên con đường sai. Người mù nghĩ về ánh sáng thì có
thể cứ nghĩ mãi hàng nhiều kiếp. Người đó vẫn sẽ không có ý niệm nào về ánh
sáng là gì. Người đó thậm chí không thể nghĩ về bóng tối được - nói gì đến ánh sáng?
Thông thường mọi người nghĩ rằng người mù phải sống thường xuyên trong bóng tối.
Họ sai, bởi vì để thấy bóng tối bạn cần mắt, và người có thể thấy bóng tối thì
cũng có thể thấy ánh sáng nữa. Đấy chỉ là vấn đề mở mắt ra hay nhắm mắt lại.
Nhưng người mù không có mắt chút nào. Người đó không phải là một phần của thế
giới nơi bóng tối tồn tại, nơi ánh sáng tồn tại.
Đã có sai lầm cực
kì lớn. Điều tự nhiên cho người phương Tây là dịch darshan thành triết lí.
Nhưng người ta cảm thấy xấu hổ rằng những người như tiến sĩ Radhakrishna cũng dịch
darshan là triết lí. Chỉ các tâm trí nô lệ - bất kì cái gì phương Tây làm họ đều
sẽ bắt chước nó.
Thứ hai là, tôi
không có tôn giáo nào cả, tôi có tính tôn giáo. Và tôi muốn nhấn mạnh sự kiện
là tính tôn giáo là phẩm chất sống. Tôn giáo là giáo điều chết. Hindu giáo là
tôn giáo, Mô ha mét giáo là tôn giáo, Phật giáo là tôn giáo. Nhưng Phật Gautam
chỉ là tính tôn giáo, không phải là tôn giáo. Tính tôn giáo giống hệt như phẩm
chất của tình yêu. Khi bạn trong tình yêu với một người, đấy là kinh nghiệm, phẩm
chất - hiện tượng sống, rung động. Khi bạn trong tình yêu với toàn thể sự tồn tại,
đấy là tính tôn giáo.
Tôn giáo có thể
có nhiều, tính tôn giáo chỉ có một, cũng giống như tình yêu. Bạn không có tình
yêu của người Mô ha mét giáo, tình yêu của người Ki tô giáo, tình yêu của người
Hindu. Điều đó sẽ vui nhộn đây. Tình yêu đơn giản là tình yêu mà không có tính
từ nào. Tính tôn giáo cũng vậy. Và tôi không dạy tôn giáo, đó là lí do tại sao
mọi tôn giáo đều chống lại tôi. Tôi dạy tính tôn giáo.
Tính tôn giáo
có nghĩa là một người đi xa khỏi suy nghĩ tới vô suy nghĩ, đi từ tâm trí tới vô
trí, đi từ thân thể tới linh hồn, đi từ bên ngoài tới bên trong. Tính tôn giáo
tối thượng làm cho bạn thành trung tâm cơn lốc.
Khắp xung quanh
bạn đều là cơn lốc nhưng bạn là trung tâm im lặng, và từ trung tâm im lặng đó
toả ra tất cả những tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng, đẹp đẽ.
Các phát biểu của
Upanishads không phải là những phát biểu của người thuộc vào bất kì tôn giáo
nào. Chúng là những phát biểu của những người đã chìm ngập bản thân mình trong
tính tôn giáo. Bất kì cái gì là chân lí, đẹp đẽ, tốt lành đều bắt nguồn từ kinh
nghiệm về tính tôn giáo.
Satyam, shivam,
sundram: chân lí, tốt lành, cái đẹp. Mọi tôn giáo đều có niềm tin, và mọi niềm
tin đơn giản che đậy dốt nát của bạn. Từ chính ban đầu nó đã là niềm tin - bạn
không biết. Đấy là người mù tin vào ánh sáng, đấy là người điếc tin vào âm nhạc.
Tính tôn giáo
không bắt đầu trong niềm tin, nó bắt đầu trong việc kinh nghiệm. Nó là cuộc
hành trình nội tâm. Và tại cốt lõi bên trong nhất chúng ta tất cả là một.
Koran, Kinh Thánh, Gitas và Vedas tất cả đều bị bỏ ra. Tại cốt lõi bên trong nhất
của bản thể bạn có duy nhất tính thượng đế, không có thượng đế. Tôi phải nhấn mạnh
sự kiện là các tôn giáo tin vào thượng đế, điều mà họ không có bằng chứng,
không có chứng kiến; đấy chỉ là bịa đặt của riêng họ. Đó là lí do tại sao có
nhiều thượng đế thế.
Có ba trăm tôn
giáo trên trái đất. Và nếu bạn đi vào chi tiết thì bạn sẽ ngạc nhiên. Hindu có
ba mươi ba triệu thượng đế, con số đã có thời là dân số của Ấn Độ - cùng số
dân. Đấy là chỉ dẫn rằng mỗi người phát minh ra thượng đế của riêng mình,
quan niệm riêng của người đó về thượng đế.
Tôi không có
Thượng đế nào. Tôi không thuyết giảng về Thượng đế bởi vì những hậu quả là nguy
hiểm. Nếu có Thượng đế như một đấng sáng tạo, bạn chỉ là con rối. Bạn làm mất
đi chân giá trị của mình, bạn làm mất đi tính người của mình; bạn đã được tạo
ra từ bùn. Và Thượng đế dường như đồng bóng, bởi vì ngài đã làm gì từ vĩnh hằng?
Người Ki tô giáo nói ngài đã tạo ra thế giới mới bốn nghìn lẻ bốn năm trước
Jesus Christ. Thượng đế đó dường như là một kẻ lập dị. Với thời gian trước bốn
ngàn lẻ bốn năm đó thì sao? Ngài đã làm gì? Và ngài là một Thượng đế nguy hiểm.
Ngài có thể phá huỷ bạn ngay chính khoảnh khắc này. Nếu ngài có thể tạo ra bạn,
ngài có thể phá huỷ bạn; bạn không phải là người chủ riêng của mình.
Friedrich
Nietzsche là đúng khi ông ấy nói, "Thượng đế chết. Do đó tôi tuyên bố con
người là tự do." Tôi đi lên trước Friedrich Nietzsche một bước. Ngay cả việc
nói "Thượng đế chết" là chấp nhận rằng có thời ngài sống. Tôi nói
chưa bao giờ có Thượng đế; ngài là bịa đặt của các tu sĩ để khai thác nhân loại,
để phá huỷ tự do của con người. Nhưng phần thứ hai của phát biểu của ông ấy,
"do đó con người là tự do" lại có sáng suốt lớn. Nó nói rằng nếu Thượng
đế có đó, không tự do nào là có thể cả. Và nếu bạn muốn tự do, thế thì Thượng đế
phải được nói lời tạm biệt.
Tôi dạy con người
tính thượng đế. Đó là quan niệm hoàn toàn khác. Các phẩm chất của từ bi, phẩm
chất của phục vụ, phẩm chất của tình yêu, phẩm chất của sự chân thành, phẩm chất
của chân lí, phẩm chất của thiền, tất cả những điều này đều là các khía cạnh của
tính thượng đế.
Bạn không phải
tôn thờ Thượng đế. Điều đó đơn giản là ngu si, và nó đang xảy ra trên khắp thế
giới - trong đền đài, trong nhà thờ Mô ha mét giáo, trong gurudwaras, trong
giáo đường Do Thái, trong nhà thờ. Tôi gọi nó đơn giản là ngu xuẩn. Thượng đế
phải không được tôn thờ, cũng như tình yêu đâu có phải được tôn thờ. Tình yêu
phải được sống, tính thượng đế phải được sống. Vấn đề không phải là tôn thờ, vấn
đề là sống; tính thượng đế là cách sống của tôi.
Bạn đã hỏi,
cách sống của tôi có tiến hoá không? Bất kì cái gì sống bao giờ cũng tiến hoá,
chỉ cái chết mới không tiến hoá. Tôi vẫn sống. Cho tới hơi thở cuối cùng của
mình kiến sinh của tôi, tính tôn giáo của tôi, sẽ cứ tiến hoá, sẽ cứ trở thành
ngày một sâu sắc hơn, cao hơn, sẽ cứ đạt tới các vì sao.
Bạn cũng đã hỏi
liệu, sau những kinh nghiệm chấn động của tôi, thái độ của tôi với cuộc sống có
thay đổi không. Không.
Cách tôi nhìn
vào mọi thứ đã thành sâu sắc. Tôi yêu bây giờ với chiều sâu lớn, và tính thượng
đế bên trong của tôi đã trở thành điệu vũ, bài ca, lễ hội. Bởi vì những kinh
nghiệm chấn động đó đã làm cho tôi thấy tuyệt đối rõ ràng rằng đây không phải
là lúc chỉ ngồi và tận hưởng phúc lạc của tôi trong hang động đâu đó trên
Himalayas.
Thời điểm khủng
hoảng đã tới mức toàn thể nhân loại đang trên cây chữ thập. Đây là lúc đạt tới
mọi trái tim, đây là lúc đánh thức mọi người đang ngủ. Nhưng kiến sinh của tôi
và tính tôn giáo của tôi tuyệt đối không bị ảnh hưởng. Chúng đang tiến hoá,
đang trở thành ngày một toàn diện hơn, nhưng không cái gì bị bỏ đi cả. Không cái
gì bị sửa đổi hay thêm vào. Quan điểm cơ sở của tôi vẫn còn như cũ nhưng nó cứ
phát triển, giống như cây. Thậm chí khi bạn thấy nó đang đứng đấy, nó đang thực
sự lớn lên.
Phật Gautam hay
nói rằng chúng ta nên loại bỏ, khỏi ngôn ngữ của chúng ta, các danh từ và đại từ,
và tôi đồng ý với ông ấy. Ông ấy nói rằng cuộc sống chỉ gồm các động từ. Không
có sông, chỉ có việc chảy của sông.
Không có cây, chỉ có việc đang là cây. Bởi vì mọi thứ đều chuyển động, đi tới
những đỉnh cao lớn hơn, đạt tới những chiều sâu lớn hơn.
Một trong những
tranh luận về giáo huấn của thầy là ở chỗ không có gì cấm kị cả, đặc biệt là dục
tự do. Điều này có đúng không, và đây có phải là phê phán chính chống lại thầy
không?
Không có gì là
cấm kị, ngoại trừ bản thân điều cấm kị. Cuộc sống nên được sống trong tính toàn
bộ của nó, trong sự mãnh liệt của nó, trong tính toàn thể của nó. Với tôi, việc
sống cuộc sống trong tính toàn thể của nó là thiêng liêng, không có thiêng
liêng nào khác.
Đúng là những
người chống lại tôi đã làm cho điều đó thành điểm cơ sở để phê phán tôi. Nhưng
lí do không phải là tôi đang dạy về tính toàn thể của cuộc sống, dạy về chấp nhận
không bị cấm đoán của sự tồn tại. Lí do là ở chỗ tôi đã chặt tại chính gốc rễ của
mọi tôn giáo này; và họ không có gì khác để kết án, phê phán. Họ không có câu
trả lời nào cho bất kì câu hỏi nào của tôi. Họ đã chọn dục, điều đơn giản chỉ
ra kìm nén của họ chứ không gì khác. Tôi có trên năm trăm cuốn sách, và chỉ một
cuốn nói về dục; mọi cuốn còn lại đều lên án mọi tôn giáo này từ mọi góc độ. Họ
im lặng về nó bởi vì họ không có câu trả lời nào.
Cho nên dục đã
trở thành hội tụ của họ. Họ đã cố gắng trên khắp thế giới, dường như dục là
giáo huấn duy nhất của tôi. Và chọn lựa của họ đơn giản phơi bầy không chỉ kìm
nén của họ, nó cũng còn phơi bầy rằng trong hàng thế kỉ họ đã từng kìm nén dục
trong mọi người.
Điều kì lạ là
trong năm trăm cuốn sách có mỗi một cuốn về dục... mà điều đó nữa cũng không thực
là về dục. Tên của cuốn sách đó là Từ dục tới siêu tâm thức. Về cơ bản nó là
cách biến đổi năng lượng dục thành kinh nghiệm siêu tâm thức. Thực ra, đấy là
cách duy nhất để vượt ra ngoài dục, siêu việt lên trên dục, thăng hoa dục. Và
cuốn sách đó là cuốn sách duy nhất đã được dịch ra gần mọi thứ tiếng trên thế
giới. Điều đó chỉ ra bệnh hoạn của tâm trí con người.
Tôi đã từng
nghe, một đêm một người đàn ông cùng người đàn bà trên giường, và bỗng nhiên
người đàn bà nói, "Dậy mau và chui vào tủ trốn đi; em vừa nghe tiếng còi
xe chồng em. Và giữ yên tĩnh và im lặng, bởi vì anh ấy không ở đây lâu đâu. Anh
ấy phải đi làm nhiệm vụ buổi đêm." Người này chui vào trong tủ. Và đúng vậy,
người chồng bước vào. Vào chính lúc đó người này nghe thấy ai đó khác ở trong tủ
cùng với anh ta, một đứa trẻ nhỏ. Và đứa nhỏ nói, "ở đây tối lắm."
Người này nói,
"Lạy Chúa, cháu đừng nói to thế. Năm đô la đây, yên đi." Đứa bé nói,
"Tối quá chừng." Người này nói, "Cháu có thể lấy mười đô
la." Người này sợ ông chồng.
Đứa bé đáp,
"Không có tác dụng đâu, trời tối thế và cháu sẽ kêu lên đấy."
Người này đưa
năm mươi đô la - tất cả số tiền anh ta có. Anh ta nói, "Cháu có thể nhìn
vào túi bác đây, bác không còn gì nữa. Bây giờ nếu cháu muốn kêu thì cứ kêu
đi."
Đứa bé nói,
"Thế được rồi, có tác dụng đấy. Cho hôm nay thì có tác dụng. Nhưng lần sau
bác nhớ, chỉ năm mươi đô là là thấp với cháu đấy." Người này nói,
"Cháu muốn nói gì?"
Nó nói,
"Đây là kinh doanh của cháu. Cháu bao giờ cũng ở trong tủ này, và ít nhất
một trăm đô la là phí của cháu. Cho nên lần sau bác nhớ lấy, bác sẽ phải vào
trong tủ và thay vì mặc cả về giá, chỉ việc đưa cho cháu một trăm đô la, và
cháu sẽ im lặng."
Người này nói,
"Thôi được, nhưng yên đi. Bây giờ cháu đã có được bất kì cái gì cháu muốn
có."
Hôm sau đứa bé
nói với bà nó, "Cháu muốn mua chiếc xe đạp ba bánh." Bà nói,
"Nhưng bằng cái gì? Bà không có tiền." Đứa bé nói, "Bà đừng lo về
tiến, cháu đã có năm mươi đô la rồi." Bà nói, "Năm mươi đô la, nhưng
cháu lấy từ đâu?" Đứa bé nói, "Đấy là bí mật. Bà đi với cháu."
Nhưng bà già
này lại rất, rất tôn giáo. Bà ấy nói, "Chừng nào cháu chưa nói thật với
bà... cháu ăn cắp nó phải không? Cháu kiếm đâu ra năm mươi đô la này?" Hôm
đó là chủ nhật, cho nên bà ấy nói, "Trước hết cháu tới nhà thờ. Nếu cháu
không muốn nói cho bà, đến thú tội với linh mục. Ông ấy sẽ không nói gì với ai
cả, cho nên cháu chỉ cần thú nhận sự thật." Đứa bé nói, "Được."
Nó tới chỗ ngồi
thú tội với một cửa sổ nhỏ; ở phía bên kia là ông linh mục. Đứa bé nói, "ở
đây tối quá." Và ông linh mục nói, "Mày là thằng chó đẻ, mày lại bắt
đầu rồi."
Dục đã bị kìm
nén, nhưng nó vẫn không bị phá huỷ. Thực ra những người đã kìm nén nó đều là những
người đã làm đồi bại cả nhân loại thành đồng dục, thành đồng dục nữ, thành đồng
dục nam, thành đủ mọi loại xấu xí. Dục tự nhiên là hiện tượng đẹp giữa hai người
yêu nhau. Và chỉ bằng việc kết án dục bạn không thể phá huỷ được nó, nó mang
tính tồn tại. Nhưng bạn có thể đầu độc nó, và cả nhân loại đang sống với chất độc
đó.
Tôi muốn dục là
hiện tượng tự nhiên, đẹp đẽ. Nhưng đấy không phải là giáo huấn cơ sở của tôi, đấy
chỉ là một phần của việc chấp nhận tính toàn thể của cuộc sống. Nhưng những kẻ
điên về dục đó đã kìm nén nó, tâm trí họ bệnh hoạn.
Tiến sĩ
Johnson, một trong những nhà ngôn ngữ lớn về tiếng Anh, đã viết một cuốn từ điển
lớn, biên soạn mọi từ Anh có vào thời đó. Tôi đang nói điều này bởi vì tiếng
Anh là ngôn ngữ duy nhất cứ tiến hoá hàng năm - chấp nhận ít nhất tám nghìn từ
mới. Nó không phải là ngôn ngữ chết như tiếng Phạn hay A rập; nó không sợ hãi,
nó cứ phát triển.
Khi từ điển được
xuất bản, sau vài ngày, ba bà già, bẩy mươi, bẩy lăm, tám mươi - rất già, với mắt
kính dầy cộp - cùng cuốn từ điển tới tiến sĩ Johnson và nói, "Ông dường
như định phá huỷ nền đạo đức của đất nước này."
Ông ấy nói,
"Tôi đã làm gì?"
Họ nói,
"Ông đã xuất bản cuốn sách dâm dục này." Ông ấy nói, "Sách dâm dục
sao? Đây là từ điển."
Họ nói, "Từ
điển à? Có ba từ trong đó mang tính dâm ô. Và họ đã gạch dưới ba từ đó trong
hàng nghìn từ. Ba bà già đó đã làm một việc lớn vậy.
Tiến sĩ Johnson
nói, "Các bà làm phép mầu. Chỉ trong có ba ngày... Công việc của tôi là
thu thập từ, nhưng trong số hàng nghìn từ, làm sao các bà có thể tìm ra được ba
từ này? Các bà không quan tâm tới toàn thể cuốn từ điển, các bà tìm những từ
này. Và bởi vì ba từ này, nên cuốn từ điển đã trở thành tài liệu dâm dục."
Dục không phải
là giáo huấn của tôi. Giáo huấn của tôi là tự phát, là toàn thể. Tất nhiên, dục
là một phần của cuộc sống, và là phần rất cơ bản và bản chất của cuộc sống. Nó
nên được kính trọng. Nó là thiêng liêng, nó không tục tĩu, bởi vì bạn đã không
tạo ra nó. Bạn sẽ không ở đây nếu không có dục trong thế giới. Nếu bố mẹ bạn mà
nghe lời cái gọi là các mahatmas, tất cả bạn chắc đã không ở đây rồi. Đã không
cần có chiến tranh thế giới hạt nhân. Vô dục sẽ phá huỷ thế giới mà không cần
cuộc chiến tranh nào cả, một cách im lặng.
Những người nói
rằng dục là các giáo huấn của tôi đơn giản phô ra tâm trí của họ. Và các cuốn
sách bạn gọi là tôn giáo thì đầy những dâm dục. Ngay cả Kinh Thánh thiêng liêng
có năm trăm trang mà chỉ có thể được gọi là khiêu dâm. Nhìn vào cuốn Puranas của
bạn mà xem; tất cả đều xấu xa và tục tĩu. Nhưng bạn đã trở nên quen thuộc, bạn
thậm chí
không nghĩ hai lần khi bạn thấy shivalinga và cúng dường hoa và bày tỏ sự
kính trọng của bạn - bạn không biết mình đang làm gì. Shivalinga là biểu tượng
dương vật, và bạn đang tôn thờ nó.
Tới Khajuraho
và nhìn vào các đền đài mà xem. Tới Puri, tới Konarak, và nhìn vào các ngôi đền
của bạn mà xem. Bạn sẽ ngạc nhiên là, "Lạy chúa, đây mà là đền đài
sao?" Hàng nghìn những bức tượng tục tĩu, dâm ô, xấu xí: làm tình được làm
theo những cách kì lạ đến mức bạn không thể nào hình dung ra nổi. Bạn đã bao giờ
mơ tới việc làm tình với người đàn bà đứng lộn đầu xuống đất chưa? Tại
Khajuraho bạn có thể thấy điều đó. Bạn đã thấy ba người đàn ông cùng làm tình với
một người đàn bà không? Tại Khajuraho bạn có thể thấy điều đó. Đây là các đền của
bạn đấy. Trên khắp Ấn Độ bạn có nhiều tượng về Shivalinga hơn bất kì cái gì
khác. Điều đó là kì lạ.
Tại Ấn Độ chỉ
có một đền thờ về Brahma, người tạo ra thế giới theo người Hindus. Ai bận tâm về
ông ấy? - ông ấy đã tạo ra thế giới này, công trình của ông đã kết thúc, ông về
hưu. Nhưng thế rồi Shiva phải đứng ra trông nom. Ông ấy là nguy hiểm, ông ấy sẽ
phá huỷ thế giới này. Việc tôn thờ ông ấy cũng là tốt - cứ ở trong sách tốt của
ông ấy, để cho khi ông ấy phá huỷ thế giới, ít nhất ông ấy có thể cứu bạn, chẳng
hạn, "Đây là tín đồ đáng thương của ta." Và bạn có biết cách
shivalinga đi vào sự tồn tại thế nào không? Tôi muốn kể cho bạn một câu chuyện.
Brahma và
Vishnu và Shiva là tam thần, tam thể Hin du, ba khuôn mặt của Thượng đế. Brahma
và Vishnu đang tranh cãi về cái gì đó và họ không thể nào đi tới kết luận được.
Cho nên họ nói, "Tốt hơn cả là chúng ta nên tới Shiva và hỏi lời khuyên của
ông ấy, xem ông ấy nói gì. Với ba người, chúng ta có thể quyết định theo đa số
xem ai đúng. Với hai người thì rất khó đồng ý ai đúng."
Họ tới Shiva;
lúc đó là buổi sáng. Shiva dường như rất phương Tây, ông ta làm tình với
Parvati vào buổi sáng. Người Hindus không làm điều đó; họ làm điều đó vào nửa
đêm, trong im lặng, không tạo tiếng động gì. Và họ làm điều đó thật nhanh, thật
lẹ, sợ rằng ai đó có thể thức dậy. Buổi sáng người này đang làm tình, và cửa để
mở. Và hai quí ông này thậm chí không có cảm giác phải đi ra và để cho ông ta kết
thúc đã. Họ đứng đó và nhìn, cũng giống như mọi người Ấn Độ vậy. Họ không thể bỏ
qua một cơ hội như vậy.
Shiva quá mải
miết trong bài tập làm tình tới mức ông ta thậm chí không biết ai đang đứng đó.
Ông ta cứ ấn lên ấn xuống! Parvati cố gắng dừng lại, bởi vì cô ấy thấy hai
chàng này đứng đó, nhưng Shiva lại không phải là người cản lại được. Sáu giờ
trôi qua, ông ta vẫn làm tình, và hai chàng này vẫn đứng đó. Bởi vì ông ta
không chú ý gì tới họ cả, nhưng cứ liên tục làm tình và họ có việc khác phải
làm, một cách ngần ngại họ phải rời bỏ cảnh đẹp thế.
Và đó là các
sách tôn giáo của bạn đấy! Ngay cả ban kiểm duyệt Ấn Độ cũng không cho phép một
cảnh như vậy trong phim. Nó sẽ bị kiểm duyệt - nhưng người Hindu nên tranh đấu
vì việc kiểm duyệt này. Đấy là việc can thiệp vào tính tôn giáo của họ. Họ nên
làm phim về nó, sẽ là một cú siêu huých. Không có gì khác, chỉ ba giờ liên tục,
Shiva làm tình, và hai vị kia đứng xem từ mọi góc độ và mọi phía; không cần
chuyện gì được kể thêm.
Tức tối, bởi vì
họ phải tham dự vào công việc khác, họ nguyền rủa Shiva, "Vì ông đã không
chú ý tới chúng tôi, ông đã không đón chào chúng tôi, ông thậm chí đã không
thèm nhìn chúng tôi, chúng tôi lên án ông, rằng mãi mãi cho tới vĩnh hằng ông sẽ
được nhớ bằng biểu tượng dương vật. Tượng của ông sẽ không được làm." Đó
là lí do thực sự tại sao shivalinga được tôn thờ, nó là lời nguyền rủa - nhưng
không ai bận tâm.
Dục không phải
giáo huấn của tôi. Giáo huấn của tôi bao la, nó bao hàm toàn thể cuộc sống của
bạn. Bạn không thể phê phán tôi bởi vì bạn có dục như một phần của cuộc sống bạn.
Tôi muốn nó được kính trọng, được làm thành linh thiêng. Nếu bạn cảm thấy nó xấu
xí, nếu bạn cảm thấy nó tục tĩu, điều đó có nghĩa là bạn được sinh ra từ cái xấu
xí. Thế thì làm sao bạn có thể kính trọng bố bạn được? Làm sao bạn có thể kính
trọng mẹ bạn được? Làm sao bạn có thể dám được con mình kính trọng? Bởi vì mối
nối duy nhất giữa bạn và bố mẹ bạn, giữa bạn và con bạn, là dục. Không có mối nối
khác.
Cuộc sống đã
chuyển từ bố mẹ bạn qua bạn, từ bạn qua con bạn. Nếu bạn muốn xã hội kính trọng,
nơi bố mẹ được yêu mến và kính trọng, nơi con cái được yêu mến và kính trọng,
thế thì bạn sẽ phải kính trọng năng lượng của dục nữa. Bằng không, sâu bên dưới
trong tâm trí bạn, con bạn không là gì ngoài tội lỗi. Và bạn cũng thế bởi vì bố
mẹ bạn cũng phạm tội.
Tôi chống lại
những người đang đầu độc cuộc sống và làm biến chất nó thành tội lỗi. Tôi muốn
nó là một hiện tượng đẹp đẽ, đức hạnh, linh thiêng. Và tôi bị kết án bởi điều
đó trên khắp thế giới.
Rất kì lạ! Nói
ra chân lí dường như là tội lỗi. Nhưng tôi sẽ cứ phạm tội đó, bởi vì tôi biết
những người đã kết án tôi đã không nghĩ về tất cả những hậu quả. Họ nên tự tử,
họ nên giết mẹ họ và bố họ đi, bởi vì họ tất cả đều đam mê dục. Họ nên giết con
họ bởi vì con họ sinh ra từ dục. Bạn có muốn cái loại tôn giáo này lan rộng
trên trái đất không?
Với tôi, bất kì
cái gì sự tồn tại đã trao cho bạn đều đẹp. Lên án tôi, những người này đã bịa đặt
ra các ý niệm riêng của họ không có gì liên quan gì tới tôi cả. Họ cứ thuyết giảng
cho đám đông rằng tôi đề xuất dục tự do. Tôi chưa bao giờ dùng cụm từ "dục
tự do". Và họ ngụ ý gì? Dục phải được bán sao? Nó không nên được tự do
sao? Họ có muốn cả thế giới trở thành thế giới của kẻ mãi dâm không?
Thực ra bạn đã
làm cho thế giới này thành thế giới của kẻ mãi dâm. Vài kẻ mãi dâm bán thân thể
họ để sống một ngày; bạn đã mua vợ bạn cho cả đời bạn. Và thế giới kì cục làm
sao - bạn đã mua vợ bạn, và bố mẹ cô ấy, để gạt bỏ cô ấy, đã cho bạn tiền. Và bạn
có quyền làm tình với vợ mình hay với chồng mình dù họ có trong tâm trạng hay
không. Tôi đã là khách trong hàng trăm ngôi nhà, và tôi lấy làm sửng sốt. Chồng
và vợ liên tục cãi nhau, đánh nhau, nhìn nhau như kẻ thù; và họ cứ sinh ra trẻ
con.
Với tôi, người
đàn bà không yêu chồng mình mà vẫn cho phép thân thể mình bị sử dụng là vận
hành cũng như một gái mãi dâm vậy. Người đàn ông không yêu vợ mình nhưng vẫn
làm tình với cô ấy bởi vì đấy là bổn phận của anh ta là hành động như một trai
mãi dâm. Bạn sẽ ngạc nhiên với từ 'trai mãi dâm'. Ở phương Tây, trong những năm
cuối thế kỉ hai mươi này, trai mãi dâm đã xuất hiện trên thị trường. Phong trào
giải phóng phụ nữ đã đem họ tới. Đàn bà muốn bình đẳng về mọi thứ, cho nên tại
sao chỉ đàn bà mãi dâm? Cho nên bây giờ, ở London, ở San Francisco, ở Los
Angeles, ở New York, trai mãi dâm cũng sẵn có. Giải phóng phụ nữ lớn lao!
Nỗ lực của tôi
đã là làm cho cuộc sống con người thành điện thờ tình yêu, ngôi đền của tình
yêu. Tôi đã bị lên án bởi vì họ không có bất kì đáp ứng nào khác. Tôi đã chặt tận
gốc rễ của họ.
Nhưng kết án
tôi về dục là dễ, bởi vì mọi người dường như đồng ý với họ. Ngay cả những người
đang khai thác việc kìm nén dục bằng cách xuất bản các tạp chí khiêu dâm như
PLAYBOY, PENTHOUSE và những tác phẩm văn học xấu xa cũng chống lại tôi.
Bạn có thể thấy
điều gì đó rất kì lạ. Các tu sĩ chống lại tôi và những người xuất bản sách báo
khiêu dâm chống lại tôi, điều đó nghĩa là gì? Điều đó nghĩa là, nếu kìm nén dục
biến mất, ai sẽ quan tâm tới sách báo khiêu dâm? Toàn thể kinh doanh này sẽ rơi
tõm. Cho nên dường như có mưu đồ bên trong, có lẽ vô ý thức, giữa các tu sĩ và
người xuất bản sách báo khiêu dâm - rằng các tu sĩ tạo ra thị trường còn người
xuất bản sách báo khiêu dâm thu hoạch mùa màng, và hay làm sao! Các tu sĩ cứ
lên án sách báo khiêu dâm, nhưng ông ta càng lên án nó, mọi người càng xem
tranh xấu xí, tục tĩu. Nhưng họ phải che giấu chúng đằng sau Kinh Thánh, đằng
sau Gita, để cho nếu ai đó bỗng nhiên xuất hiện, họ có thể đóng Kinh Thánh và
Gita lại và bạn không bao giờ biết cái gì được che giấu trong chúng.
Khi tôi bị bắt ở
Mĩ - khi tôi vào xà lim, đã có một bạn tù khác. Trên phía anh ta, anh ta dán đầy
tường những bức ảnh phụ nữ khoả thân, xấu xí. Nhưng mọi sáng, mọi tối, anh ta sẽ
đặt Kinh Thánh lên giường, quì xuống sàn, úp đầu lên Kinh Thánh và cầu nguyện một
nửa giờ.
Ngày đầu tiên
tôi đã quan sát; ngày thứ hai tôi nói, "Điều này thật là lạ. Anh là người
tôn giáo, anh không nên dán những bức tranh này lên tường."
Anh ta nói,
"Chưa từng có ai nói với tôi điều đó. Mọi bức tường trong nhà giam đều được
dán đầy các bức tranh dâm dục, và mọi người đều có Kinh Thánh. Nhưng tôi chưa
bao giờ thấy mâu thuẫn cả."
Tôi nói,
"Không có mâu thuẫn. Anh đã kìm nén dục, điều đó được viết lên tường. Và
điều anh làm - tựa đầu lên Kinh Thánh, đơn giản là đạo đức giả. Bằng việc tựa đầu
lên Kinh Thánh anh có cho rằng Kinh Thánh sẽ đi vào đầu anh, làm thay đổi con
người anh không? - và điều đó chỉ trong vài phút vào buổi sáng, vài phút vào buổi
tối. Còn hai mươi tư giờ một ngày, tôi thấy anh nhìn vào các bức tranh này, tìm
kiếm bức tranh mới, đem về bức tranh mới."
Các tôn giáo chịu
trách nhiệm cho sách báo dâm dục, các tôn giáo chịu trách nhiệm cho những đồi bại
dục. Tôi chỉ dạy tự nhiên cho những người có tâm trí đã bị đầu độc chống lại tự
nhiên.
Xem tiếp – Quay về Mục lục