Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Showing posts with label Osho Tự truyện. Show all posts
Showing posts with label Osho Tự truyện. Show all posts

Chương 17: Thiền định cho thế kỉ 21

Osho - Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho)
Phần III: Di sản
Chương 17: Thiền định cho thế kỉ 21


Tôi đang làm việc trong 10 năm liên tục, dạy sự thư giãn trực tiếp. Nó đơn giản với tôi, nên tôi nghĩ nó cũng sẽ đơn giản với mọi người. Rồi, dần dần, tôi trở nên nhận biết rằng điều đó là không thể được. Tôi bị sai lầm, điều đó không thể được. Tôi thường nói, "Hãy thư giãn," với những người mà tôi đang dạy. Họ thường có vẻ như hiểu nghĩa của từ đó, nhưng họ không thể thư giãn. Do vậy, tôi phải chế tác những phương pháp thiền định mới, mà trước tiên tạo ra sự căng thẳng – nhiều căng thẳng hơn. Chúng tạo ra căng thẳng quá lớn, đến nỗi bạn phát điên lên.  Và rồi tôi nói, "Hãy thư giãn."
Khi bạn đã căng thẳng tới đỉnh điểm, toàn bộ thân xác bạn, toàn bộ tâm trí bạn trở nên khao khát được thư giãn. Với quá nhiều căng thẳng, bạn muốn ngừng lại, và tôi tiếp tục đẩy bạn tiếp tục, tiếp tục cho tới cuối. Hãy làm bất cứ cái gì mà bạn có thể làm để tạo ra căng thẳng, và rồi, khi bạn ngừng lại, bạn đơn giản rơi từ chóp đỉnh xuống một vực sâu. Vực sâu là cứu cánh, sự không nỗ lực là cứu cánh, nhưng bạn có thể dùng sự căng thẳng như phương tiện.

Khi tôi là giáo sư tại trường đại học, một trong số những đồng nghiệp của tôi muốn học thiền định. Tôi có một "trường học" nhỏ gồm những hành giả ở đó. Anh ta tham gia, và ngày đầu tiên anh ta trải nghiệm sự im lặng, anh ta đơn giản nhảy ra khỏi cái thiền thất nhỏ nơi mà chúng tôi thường ngồi, và chạy đi mất! Tôi không thể hiểu cái gì đã xảy ra. Tôi đã phải đi theo anh ta. Anh ta quay lại nhìn tôi, và khi anh ta nhìn tôi đuổi theo, anh ta chạy càng nhanh hơn. Tôi nghĩ, "Chắc có chuyện gì đó! Cái gì đã xảy ra với người anh chàng này?"
Tôi hét to lên, "Hãy đợi, Nityananda!" – tên anh ta là Nityananda Chatterji – "Chỉ một lát thôi!"  Anh ta chỉ đơn giản vẫy tay, ngụ ý, "hết rồi", và nói, "Tôi không muốn thiền định. Anh là một người nguy hiểm!"
Sau cùng, tôi tóm được anh ta ngay khi anh ta bước vào nhà mình. Bây giờ anh ta không thể chạy đi đâu khác nữa. Tôi nói, "Tốt hơn, bạn nên kể cho tôi nghe cái gì đã xảy ra."
Anh ta nói, "Tôi không biết anh đã làm cái gì, nhưng tôi trở nên quá im lặng – và anh biết đó, tôi là một kẻ ba hoa" – Chatterji cũng là tên anh ta. Anh ta là một người Bengal. "Vào buổi sáng, tôi bắt đầu nói, và tôi nói cho đến khi tôi ngủ thiếp đi, hầu như giữa một câu – tôi nói liên tục. Nó giữ cho tôi bận rộn, không lo lắng, không vấn đề. Tôi biết có những vấn đề, nhưng việc nói chuyện với bất cứ ai… nếu không có ai ở đó, tôi nói với chính mình.
"Và ở đó, ngồi với anh, bỗng nhiên việc nói chuyện ngừng lại. Tôi bị trống rỗng. Và tôi nhủ thầm: 'Trời ơi, mình đang phát điên! Nếu việc này xảy ra với mình trong 24 giờ – tiêu đời ! Nityananda Chatterji ơi, đời mi đã chấm dứt. Nếu tâm trí không trở lại lần nữa… trước khi sự im lặng này đi xa hơn, thì hãy trốn khỏi nơi đây. Và tại sao 30, 40 người này lại đang ngồi nhắm mắt chứ? Nhưng đó là vấn đề của họ. Mọi người phải chăm sóc chính mình.' Cho nên tôi trốn chạy."
Tôi nói, "Đừng lo lắng. Im lặng không phải là cái gì đó hủy diệt tâm trí bạn, nó chỉ đơn giản giúp tâm trí nghỉ ngơi. Và với bạn nó xảy ra quá dễ dàng, bởi vì bạn là một kẻ ba hoa; tâm trí mệt mỏi. Với những người khác đang ngồi thiền, nó thường không xảy ra quá dễ dàng như vậy. Nhìn chung, khi lần đầu tiên ngồi thiền, tâm trí khó lòng trở nên im lặng.
"Trường hợp bạn thì khác: Bạn đã quấy rầy tâm trí quá nhiều suốt đời bạn, người ta sợ bạn. Vợ bạn sợ, con cái bạn sợ. Tại trường đại học, các giáo sư sợ. Nếu bạn đang ngồi trong căn phòng chung, toàn bộ căn phòng chung trở nên trống rỗng; mọi người đều muốn trốn thoát khỏi đó. Đó là bởi vì tâm trí bị sử dụng quá nhiều. Nó là một bộ máy, nó cần một chút nghỉ ngơi.
"Những nhà khoa học nói rằng, ngay cả kim loại cũng trở nên mệt mỏi; nó cũng cần nghỉ ngơi. Tâm trí là một hiện tượng rất phức tạp, tinh vi, là cái tinh tế nhất trong toàn vũ trụ, và bạn đã sử dụng nó quá nhiều, đến nỗi khi tìm thấy một cơ hội để trở nên im lặng, thì nó ngay lập tức trở nên im lặng. Bạn nên vui sướng."
Anh ta nói, "Nhưng nó sẽ khởi động lại, hay là không?"
Tôi nói, "Nó sẽ, bất cứ khi nào bạn muốn."
Anh ta nói, "Tôi trở nên sợ rằng, nếu nó không khởi động lại… rồi thì, 'Nityananda Chatterji ơi, đời mi đã chấm dứt. Mi sẽ ở trong một nhà thương điên – tại sao, trước hết, mi lại hỏi người đàn ông này về thiền định chứ?'!"
Và tôi nói, "Tôi vẫn luôn tự hỏi, tại sao bạn muốn thiền định."
Anh ta nói, "Tôi chỉ đơn giản đang nói về nó, y như cái cách mà tôi nói về mọi sự – và anh tóm lấy tôi. Anh nói : 'Cái đó hoàn toàn OK. Bạn có thể đến với tôi trong xe.' Tôi đã chưa bao giờ có ý muốn… Tôi nói về mọi sự, bất luận tôi biết về nó hay không; điều đó không quan trọng, tôi có thể nói hằng giờ. Chỉ vì anh đang ngồi trong hội trường và không có ai khác, tôi nghĩ, 'Chủ đề nào sẽ thích hợp?' Thấy anh, tôi nghĩ thiền định là chủ đề duy nhất mà anh có thể thích nói về, nên tôi nói. Và anh tóm lấy tôi; anh đưa tôi vào trong xe… và tôi nghĩ : 'Nó có thể gây hại gì? Nhà mình chỉ cách nhà anh ta vài phút, cho nên ngồi trong xe chạy một vòng cũng tốt thôi. Và suốt dọc đường, mình sẽ nói.' Và suốt dọc đường, tôi đã nói về thiền định. Và đó là cách mà tôi rơi vào bẫy của anh, bởi vì lúc ấy tôi không thể nào quay trở lại. Anh đẩy tôi vào trong cái thiền thất đó, nơi mà 40 người đang ngồi, nên tôi đã phải ngồi. Ngay từ đầu, tôi đã muốn trốn thoát! Tôi không bao giờ muốn thiền định, bởi vì tôi không muốn bước vào bất cứ cái gì, nếu tôi không biết nó sẽ dẫn tới đâu.
"Và ngay khi tôi đang ngồi ở đó, mọi sự trở nên im lặng. Tôi mở mắt ra, tôi nhìn quanh, và mọi người nhắm mắt, im lặng. Tôi nghĩ : 'Đây là thời điểm mà mình nên trốn chạy.' Và anh là một người quyết đoán, đến mức anh không để cho tôi thậm chí chạy thoát. Toàn con phố thấy rằng tôi đang trốn chạy và anh đang đuổi theo… và tôi đang nhủ thầm 'Mình sẽ không dừng lại.' Chỉ là… tôi trở nên quá sợ hãi. Tôi sợ hãi sự im lặng. Việc nói chuyện là hoàn toàn OK."
Tôi nói, "Bạn may mắn, bởi vì bạn đã nói quá nhiều, đến nỗi tâm trí bạn sẵn sàng thư giãn. Đừng bỏ lỡ cơ hội này – và đừng sợ! Bạn không thấy tôi sao? Tôi có thể nói chuyện. Bạn sẽ có thể nói chuyện bất cứ khi nào bạn muốn. Ngay bây giờ, việc nói chuyện không ở trong quyền lực của bạn. Nó chỉ đơn giản tự mình diễn tiến, bạn chỉ là một cái máy hát. Sự im lặng sẽ biến bạn thành một "ông chủ".
Anh ta nói, " Ờ, nếu anh hứa… Tôi tin cậy anh và tôi sẽ đến mọi ngày. Nhưng hãy nhớ, tôi không muốn phát điên. Tôi có con cái. Tôi có một người vợ, tôi có cha mẹ già…"
Tôi nói, "Đừng lo lắng. Bạn sẽ không phát điên đâu."
Và bạn sẽ ngạc nhiên: anh chàng đó tiến bộ trong thiền định hơn bất cứ ai khác. Cái đó cho tôi cái ý tưởng về một cách thiền định đặc biệt, và tôi bắt đầu dùng một kỹ thuật mới, "nói lắp bắp". Nó không tuyệt đối mới, nhưng chưa ai từng dùng nó như là một "thủ thuật" để cho nhiều người thiền định.
Tôi nói với Nityananda Chatterji, "Bạn đừng lo lắng. Bạn đã nói lắp bắp quá nhiều, đến nỗi chắc chắn bạn sắp đạt tới một sự im lặng sâu."
Và anh ta trở nên rất im lặng. Toàn trường đại học bị sốc. Họ không thể tin điều đó – tôi đã làm gì với anh ta? Bây giờ người ta thường tiếp cận anh ta, muốn anh ta nói chuyện, và anh ta thường nói, "Không, đủ rồi. Trước đây, khi tôi thường nói ba hoa, tất cả các bạn đều muốn trốn. Việc ấy đã kết thúc rồi. Xin cứ để tôi yên."
Anh ta được thăng chức, nhưng anh ta từ chối, và nhận tiền hưu trí, để vợ con anh ta có thể sống và anh ta có thể tiếp tục sự im lặng của mình. Tôi gặp anh ta sau 10 năm. Anh ta đã trở thành một người hoàn toàn mới, quá tươi mát, quá trẻ trung, như thể một cái nụ vừa đang nở ra, và trở nên một hoa hồng – với sự tươi mát đó. Và anh ta không nói chuyện; anh ta thường đến và chỉ ngồi đó hằng giờ, không nói một lời nào.
Tâm trí chỉ là một bộ máy – nó có thể nói chuyện, nó có thể im lặng. Vấn đề duy nhất là, nó không nên là chủ nhân; nó nên là đầy tớ. Là đầy tớ, nó vĩ đại; là người chủ, nó nguy hiểm. Bạn  nên là người chủ của nó.
Bạn không thể "làm" thiền định, bạn chỉ có thể ở trong thiền định. Nó không phải là vấn đề "làm" một cái gì đó, đó là vấn đề "là". Nó không phải là một hành vi, mà là một trạng thái.
Chuyện này xảy ra nhiều lần: một kẻ vô thần đến với tôi và hỏi, "Tôi cũng có thể thiền định chứ? "Bởi vì cái ý tưởng rằng, trừ phi bạn tin vào Thượng đế, bạn không thể thiền định, đã trở nên quá thịnh hành. Nhưng đó là một khái niệm ngốc nghếch. Thiền định không có dính dáng gì tới Thượng đế. Quả vậy, sự thực là, nếu bạn tin vào Thượng đế, sẽ khó mà thiền định. Chính niềm tin của bạn sẽ trở thành một sự vướng bận.
Người mà không tin vào bất cứ cái gì, có thể đơn giản vượt lên những ý tưởng; người mà tin tưởng, thường bám víu vào sự tư duy, bởi vì niềm tin của y là một ý tưởng. Sự tin tưởng là thành phần của tâm trí – nếu bạn tin quá nhiều vào Thượng đế, bạn không thể rời khỏi tâm trí, bởi vì việc rời tâm trí, hiển nhiên, có nghĩa là rời bỏ sự tin tưởng của bạn. Người nào không thể tin tưởng, y ở trong một tình huống tốt hơn.
Và hãy nhớ, từ "meditate" trong tiếng Anh cho một hàm nghĩa sai. Khi chúng ta dùng từ "thiền định”, nó cho một cảm tưởng rằng, bạn đang thiền trên một cái gì đó. Bạn phải có đối tượng nào đó để mà thiền trên đó – và đó là vấn đề. Tại phương Đông, chúng ta có một từ khác, dhyana. Dhyana đơn giản có nghĩa là không có vấn đề tập trung trên một cái gì đó; đúng hơn, nó đang vứt bỏ mọi nội dung của tâm trí và chỉ "là". Thiền định trong nghĩa dhyana không cần đối tượng nào; nó là một trạng thái ý thức không đối tượng, không nội dung. Bạn tiếp tục vứt bỏ – neti, neti, không cái này cũng không cái kia – bạn tiếp tục vứt bỏ tất cả mọi tư tưởng, tốt và xấu. Khi tất cả mọi tư tưởng đã bị loại bỏ, cái gì còn lại? Đó là bạn, và đó là "Thượng đế tính".
Nhưng bạn gọi nó là cái gì, không quan trọng. Bạn có thể gọi nó là Thượng đế nếu cái từ đó hấp dẫn với bạn; nếu nó không hấp dẫn với bạn, bạn có thể gọi nó là niết bàn, bạn có thể gọi nó là Đạo, hay bất cứ cái gì. Nhưng đừng lo lắng về chuyện đó, rằng bạn không thể tin vào Thượng đế. Điều đó là tốt! Đây là cái cách tiếp cận, phương pháp của tôi: Nếu ai đó nói, "Tôi tin vào Thượng đế,"  "Tôi không tin vào Thượng đế," thì tôi nói, "Điều đó là tốt. Bây giờ chúng ta hãy khởi đi từ đó."
Bạn phải khởi đi từ cái điểm nơi mà bạn đang ở. Và tất cả mọi điểm đều tốt, bởi vì mọi điểm đều ở trên cái chu vi của đường tròn, và từ mọi điểm trên chu vi, đều có thể tới trung tâm. Do vậy, hãy di chuyển về phía trung tâm, đừng lo lắng về nơi bạn đang ở.
Một buổi chiều, Nasruddin đang ngồi trong một tiệm hớt tóc. Ông ta chú ý đến một bảng giá trên bức tường của tiệm và trên bảng giá là, "Làm cháy sém – 5 Mỹ kim." Ông hỏi người thợ cạo tại sao nó giá cao quá như vậy.
Người thợ cạo nói, "Mọi sợi tóc trên đầu bạn là một cái ống lõm nhỏ, mở ra ở hai đầu, cho nên năng lượng của cơ thể phần nào chảy máu ra từ nó. Sau khi bạn hớt tóc xong, thật là tốt, nếu có một chút cháy sém, bởi vì nó đóng lại cái lỗ ở cuối mỗi sợi tóc, và phong kín  cái năng lượng. Nếu không, tóc và toàn bộ cơ thể sẽ trở nên ngày càng yếu đi mỗi lần bạn hớt tóc."
"Bây giờ, hãy đợi một phút," Nasruddin nói, "còn về những sợi lông trên cằm tôi thì sao? Tôi cạo nó mỗi ngày và cắt hai đầu, thế mà nó chỉ tiếp tục trở nên ngày càng dày hơn và mạnh hơn. Ông giải thích thế nào chuyện đó?"
"Dễ ợt !" người thợ cạo nói, "Bạn đơn giản không phải là cái gã mà câu chuyện này bịa ra để kể!"
Đây tất cả đều là những câu chuyện. Nếu nó hấp dẫn, tốt; nếu nó không hấp dẫn, rất tốt! Không cần phải tin; bạn không cần phải làm bất cứ gì về nó; đừng lãng phí thời gian của bạn với Thượng đế. Chỉ vì từ này mà quá nhiều người tiếp tục lãng phí thời gian. Ai đó đang cố chứng minh, ai đó đang cố bác bỏ, những luận án "vĩ đại" đang được viết. Nhiều sách được viết về Thượng đế, nhiều bằng số lượng sách viết về mọi thứ khác gộp lại – hằng triệu cuốn sách, những thư viện đầy sách. Đừng lãng phí thời gian của bạn. Nếu bạn không tin, thì câu chuyện đó không dành cho bạn. Nhưng chúng ta có những câu chuyện khác nữa, cho nên, tại sao lại lo lắng? Dành cho những người không tin Thượng đế nữa, cũng có một con đường.
Và con đường của tôi là cho tất cả. Bất cứ ai đến đều được chấp nhận. Người Hindu, Hồi giáo, Kytô giáo, Jaina giáo, người Sikh, Phật giáo, người Parsee – bất cứ ai đến đều được chấp nhận. Tôi yêu mọi loại câu chuyện! Bất cứ sự khởi đầu nào đều tốt, nhưng hãy bắt đầu. Đừng cứ bị kẹt ở nơi mà bạn đang là; hãy di chuyển về phía trung tâm. Hãy thiền định, và cái đó sẽ đưa bạn về tới nhà. Và rồi bạn có thể gọi nó là bất cứ cái gì mà bạn muốn; việc bạn gọi nó là cái gì, cái đó không phải là việc của tôi. Bạn có thể gọi nó bằng bất cứ cái tên nào tùy ý bạn.
Có 112 phương pháp thiền định; chúng đã được khám phá cách đây 10 ngàn năm. Tôi đã tạo ra một vài phương pháp mới cho con người hiện đại, bởi vì những phương pháp truyền thống đó được tạo ra cho một loại nhân loại hoàn toàn khác, cho những con người rất đơn giản.  Con người hiện đại không đơn giản, y rất phức tạp. Những phương pháp cổ xưa đó là dành cho những người không bị đè nén, họ hồn nhiên. Trong 10 ngàn năm này, những tôn giáo đã làm cho mọi người trở thành bị ức chế. Về mặt tình dục, và trong những phương diện khác, chúng đã đưa đẩy con người chống lại bản chất của riêng hắn.
Do vậy, tôi đã tạo ra những phương pháp mới có tính thanh tẩy, để các bạn có thể ném ra ngoài tất cả những ức chế, tất cả rác rưởi ra khỏi "bản thể" của bạn, và có thể trở nên sạch sẽ, hoàn toàn trống rỗng. Do vậy, 112 phương pháp đó – bất cứ phương pháp nào hấp dẫn với bạn sẽ là đủ để chuyển hóa cái "bản thể" của bạn.
Trong 60 phút mọi ngày, chỉ cần quên về thế giới. Hãy để cho thế giới biến đi khỏi bạn, và bạn biến đi khỏi thế giới. Hãy xoay người lại, một cái xoay người 180 độ, và chỉ nhìn vào bên trong. Ban đầu, bạn sẽ chỉ thấy những đám mây. Đừng lo lắng về chúng; những đám mây đó được tạo ra bởi những ức chế của bạn. Bạn sẽ gặp sự giận dữ, sân hận, tham lam, và mọi loại lỗ đen. Bạn đã đè nén chúng, nên chúng ở đó. Và những cái mệnh danh là những tôn giáo của bạn đã dạy bạn đè nén chúng, nên chúng ở đó như những vết thương. Bạn đã và đang che giấu chúng.
Đó là lý do tại sao sự nhấn mạnh của tôi trước hết là vào sự thanh tẩy. Trừ khi bạn trải qua một cuộc thanh tẩy lớn, bạn sẽ phải băng qua nhiều đám mây. Nó sẽ rất mệt mỏi, và có thể bạn sẽ quá mất kiên nhẫn đến mức bạn có thể quay trở lại thế gian. Và bạn sẽ nói, "Không có gì cả. Không có hoa sen và chút hương thơm nào, chỉ có mùi hôi hám và rác rưởi."
Bạn biết điều đó. Khi bạn nhắm mắt lại, và bạn bắt đầu di chuyển vào bên trong, bạn gặp cái gì? Bạn không gặp những vùng đất xinh đẹp mà chư Phật thường nói về. Bạn gặp những địa ngục, những thống khổ, bị đè nén ở đó, đang chờ đợi bạn. Sân hận của nhiều kiếp, tích lũy – tất cả là một mớ tùng phèo ở đó, nên người ta muốn lưu lại bên ngoài. Người ta muốn đi xem phim, tới câu lạc bộ, gặp người khác và tán gẫu. Người ta muốn bận bịu cho đến khi mệt và ngủ thiếp đi. Đó là cái cách mà bạn đang sống, đó là lối sống của bạn.
Do vậy, khi người ta bắt đầu nhìn vào trong, tự nhiên người ta hết sức bối rối. Các vị Phật nói rằng, có ân phước lớn, hương thơm cao cả – bạn gặp hoa sen đang nở và hương thơm ngào ngạt, vĩnh cửu. Họ nói về cái thiên đường này, họ nói về cái vương quốc này của Thượng đế, ở bên trong bạn. Và khi bạn đi vào, bạn chỉ gặp địa ngục. Bạn không thấy những vùng đất Phật, mà gặp những trại tập trung của Adolf Hitler. Đương nhiên, bạn bắt đầu nghĩ rằng, mọi thứ này chỉ là vớ vẩn, tốt hơn là cứ ở bên ngoài. Và tại sao lại cứ tiếp tục đùa chơi với những vết thương của mình? Nó gây đau đớn, nữa, và mủ bắt đầu chảy ra từ những vết thương, và nó dơ bẩn.
Nhưng sự thanh tẩy là hữu ích. Nếu bạn thanh tẩy, nếu bạn trải qua những lần thiền định hỗn loạn – bạn ném tất cả những đám mây này ra ngoài, tất cả bóng tối này ra ngoài – rồi chánh niệm trở nên dễ dàng hơn. Đó là lý do tại sao trước hết tôi nhấn mạnh vào thiền "hỗn loạn" rồi mới đến thiền im lặng. Trước hết, thiền "năng động," sau đó, thiền "thụ động". Bạn có thể đi vào thiền thụ động chỉ khi nào mọi cái phế tạp ở đó bị ném ra ngoài. Sân hận được ném ra ngoài, tham lam được ném ra ngoài… lớp này trên lớp kia, những thứ này có mặt ở đó. Nhưng một khi bạn đã ném chúng ra ngoài, bạn có thể "lẻn vào trong" dễ dàng. Không có cái gì ngăn trở bạn.
Và bỗng nhiên – ánh sáng chói lọi của Phật quốc. Bỗng nhiên bạn ở trong một thế giới hoàn toàn khác.

1972: TRẠI THIỀN MT. ABU, RAJASTHAN, ẤN ĐỘ
Thiền định buổi sáng có 4 giai đoạn. Trong 10 phút đầu tiên, bạn phải thực tập thở nhanh. Bạn phải bước vào trong hiện hữu thông qua việc thở, bạn phải mang lại sinh lực và năng lượng cho hơi thở. Bạn phải đặt chính đời mình vào trong hơi thở – quá nhiều đến nỗi khi hơi thở đi ra, chính linh hồn bạn đi ra với nó, và khi hơi thở đi vào, toàn bộ hiện hữu đi vào, toàn bộ hiện hữu đến với nó. Bạn phải thở quá sâu, đến mức bạn quên mọi thứ khác, chỉ có việc thở còn lại – như thể chính bạn trở thành hơi thở.
Việc thở sâu trong 10 phút này sẽ đánh thức mọi năng lượng đang ngủ bên trong bạn. Nó sẽ khơi dậy và kích hoạt mọi năng lượng đó, mà bạn chưa bao giờ thậm chí chạm tới. Nhưng sự "dè sẻn" sẽ không tốt. Đừng nghĩ theo cách này, "Mình sẽ thở chậm. Dù sao đi nữa, nếu không nhiều, thì ít ra một năng lượng nào đó sẽ thức dậy." Không, không chút nào cả – bởi vì quá trình thức tỉnh chỉ bắt đầu sau khi một giới hạn nhất định đã được đạt tới. Nó cũng giống như khi bạn đun nước; nhiệt độ lên tới 100 độ C, và rồi trở thành hơi nước. Đừng nghĩ rằng ở 30 độ nó sẽ trở thành hơi nước "tới mức nào đó" hay "một ít sẽ biến thành hơi nước". Không, toán học sẽ không dùng được ở đây. Nước biến thành hơi nước ở 100 độ. Đừng nghĩ rằng ở 50 độ, ít nhất một nửa trong số đó sẽ biến thành hơi, không – không chút nào sẽ biến thành hơi. Nó sẽ bắt đầu biến thành hơi ở 100 độ C.
Và 100 độ C đó là cái gì? Đối với nước, thì bất cứ nơi nào nó cũng giống nhau. Bạn đun nước bất cứ nơi nào, ở bất cứ xó xỉnh nào của thế giới, và nó biến thành hơi ở 100 độ. Bất luận nó là nước từ ao, sông, hay một vòi nước, hay nước mưa – bất luận từ đâu – nước không khăng khăng rằng, "Tôi đến từ giếng" hay từ sông, nó đơn giản biến thành hơi ở 100 độ.
Với con người, có một sự khó khăn, bởi vì hắn có một nhân cách, một tính cá nhân. Mỗi cá nhân "biến thành hơi" ở những nhiệt độ riêng, tùy từng cá nhân – hay, nói khác đi, 100 độ của mỗi người đều khác nhau. Con người cũng vậy, hắn chỉ "biến thành hơi" ở 100 độ, nhưng 100 độ của mọi người đều khác nhau. Do vậy, thật khó mà nói cho bạn biết, ở điểm nào thì bạn sẽ "biến thành hơi". Một điều thì chắc chắn: Bạn có thể phán đoán cái điểm 100 độ của riêng bạn. Cái tiêu chuẩn là, nếu bạn không tự kìm mình lại chút nào, thì bạn ở "bay hơi" ở 100 độ – nếu bạn đặt cược chính mình một cách hoàn toàn vào trong nỗ lực của bạn, nếu bạn tuyệt đối chắc chắn rằng bạn không tự kìm mình lại chút nào. Và người khác không dính dáng gì tới nó – nó là cái điều của riêng bạn. Do vậy, những người khác có thể biết hay không biết về nó; có thể họ nghĩ rằng bạn chưa đạt tới điểm nút. Chỉ mình bạn là cần phải biết, rằng bạn không đang tự kìm mình lại, và bạn đang đặt mình một cách hoàn toàn vào trong nó. Nếu bạn đang đặt chính mình một cách hoàn toàn vào trong nó, thì bạn "bay hơi" ở 100 độ. Rồi, không có gì phải lo lắng cả.
Điều này cũng có thể xảy ra: có thể người ngồi bên cạnh bạn đang làm nỗ lực nào đó nhiều hơn bạn, thế nhưng có thể anh ta không đạt tới 100 độ của chính mình. Có thể anh ta vẫn còn giữ lại một cái gì đó của chính mình. Và cũng có thể, là một ai đó khác làm ít nỗ lực hơn bạn, nhưng lại đạt tới 100 độ – anh ta đã đặt chính mình một cách hoàn toàn vào đó.  Do vậy, bạn không cần phải quan tâm về những người khác; bạn hãy sáng tỏ về chính mình, xem bạn có đặt cược chính mình một cách hoàn toàn hay không.
Thiền định là một canh bạc. Trong những canh bạc khác, bạn đặt cược một cái gì đó, còn trong thiền định, bạn đặt cược chính mình. Nó chắc chắn là hành vi dành cho một con bạc, chứ không phải dành cho một doanh nhân, bởi vì mối quan tâm của doanh nhân là làm sao có sự rủi ro ít nhất, cho dù những món lợi thì nhỏ bé. Mối quan tâm của một con bạc là, sao cho được lợi lớn, cho dù có nguy cơ mất hết. Đây là sự khác biệt giữa một con bạc và một doanh nhân.
Thiền định không phải là một "công trình" dành cho một doanh nhân chút nào. Thiền định là tuyệt đối dành cho một con bạc. Y đặt cược toàn bộ chính mình, bất kể cái gì.
Có một khác biệt: Trong canh bạc bên ngoài, có lẽ một lợi lộc hiếm khi xảy ra. Tôi nói "có lẽ" bởi vì cái ảo tưởng rằng nó sẽ xảy ra, mặc dù nó không xảy ra. Nó không bao giờ xảy ra. Trong canh bạc bên ngoài, thì cho dù thắng, nó chỉ là khởi đầu cho một thất bại lớn hơn. Cho dù ban đầu thắng, nó chỉ là một cám dỗ cho một trận thua lớn hơn. Do vậy, một con bạc không bao giờ thắng; bất luận y thắng bao nhiêu lần, y vẫn không phải là kẻ thắng, bởi vì sau cùng y chỉ thua.
Canh bạc bên trong thì ngược lại: Ngay cả một thất bại, nó cũng chỉ là một khởi đầu cho nhiều thắng lợi sẽ đến. Một hành giả không bao giờ thua một cách tối hậu – y thua nhiều lần, nhưng cuối cùng y thắng. Đừng nghĩ rằng một Mahavira hay một Buddha thắng ngay ngày đầu tiên, rằng một Mohammed hay một Christ thắng ngay trong ngày đầu tiên. Họ bị thua xiểng liểng! Nhưng sau cùng, họ thắng.
Do vậy, hãy thở sâu trong 10 phút, với toàn bộ con người bạn dấn thân trong nó.
Rồi, sau 10 phút thở sâu, khi năng lượng của bạn được đánh thức, nó phải được ném ra ngoài – từ bất cứ lộ trình nào mà nó muốn đi ra. Cơ thể bạn có thể nhảy bật lên, nhảy về phía trước,  nhảy múa, la hét, tạo ra những âm thanh, có vẻ như nó đã hoàn toàn phát điên; bạn không nên làm cho nó ngừng lại. Bạn phải để cho nó hoàn toàn buông thả tự do và hỗ trợ nó. Nếu cơ thể bạn muốn phát điên hoàn toàn, cứ để cho nó làm như vậy.
Tại sao? Bởi vì có vô số sự điên rồ được tích lũy bên trong bạn. Bạn phải để cho nó phát điên một cách hoàn toàn. Hoàn toàn điên, có nghĩa là, bạn không mang giữ nỗi sợ nào cả – "Mình đang làm cái gì vậy?" Hay "Mình là bác sĩ, thế mà mình lại đang nhảy nhót và nhảy lò cò! Mình làm gì vậy? Cái gì sẽ xảy ra, nếu một bệnh nhân nào đó của mình thấy mình!"
Một bác sĩ vẫn cứ sợ bệnh nhân của mình, một giáo viên cứ sợ học trò mình, một chủ tiệm vẫn cứ sợ khách hàng của mình. Bất luận bạn sợ ai, phát điên có nghĩa là, bạn vứt bỏ mỗi trong số những nỗi sợ đó – bất luận nỗi sợ có quan hệ tới ai. Người chồng sợ người vợ, và người vợ sợ người chồng. Người cha sợ con trai, và con trai sợ cha mình – bất cứ nỗi sợ nào mà bạn có thể có, phát điên có nghĩa là, "Bây giờ, mình vứt bỏ mọi nỗi sợ." Không sợ hãi, bạn sẽ phải để cho bất cứ cái gì muốn xảy ra, cứ việc xảy ra.
Chúng ta tích lũy sự điên rồ ngày này qua ngày nọ.  Nó như thể là có rác rưởi trong nhà và bạn cứ mãi giấu nó trong một xó. Việc này sẽ làm cho toàn bộ ngôi nhà dơ bẩn! Một ngày nào đó, ngôi nhà bắt đầu bốc mùi hôi. Một ngày nào đó, tình huống sẽ đi tới chỗ, ngoài rác rưởi ra, trong nhà không còn có gì khác. Như chúng ta đang là bây giờ, đây là cái mà chúng ta làm với chính mình. Bất cứ rác rưởi nào đang tồn tại trong tâm trí, ta tiếp tục tích lũy nó. Bất luận nó là sự giận dữ, sự bất lương, hay sự thù ghét – ta tiếp tục chất đống bất cứ cái gì.
Chầm chậm, chầm chậm, sự tích lũy này trở nên quá lớn, đến nỗi suốt đời, ta chỉ bận rộn với việc làm thế nào để quản lý nó, nếu không nó sẽ tràn ra, nếu không nó sẽ rớt ra, bị phô bày – và ai đó sẽ thấy nó. Rồi chúng ta trở nên quá sợ hãi nó, đến nỗi chúng ta hoàn toàn ngừng nhìn vào bên trong chính mình. Bởi vì nỗi sợ đã trở nên quá lớn, và có quá nhiều rác rưởi. Chúng ta sợ rằng nó sẽ bị phơi bày.
Chỉ những ai sẵn sàng ném ra ngoài tất cả mọi rác rưởi này, mới có thể bước vào thiền định. Khi nó được ném ra ngoài, mọi sự trở nên nhẹ nhàng trong bạn. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thanh tẩy, ném mọi thứ ra ngoài để cho một sự sạch sẽ "đáp xuống" bên trong. Nếu bạn không thu hết can đảm mà làm, bạn sẽ không thể ném mọi thứ ra ngoài. Nhưng một khi bạn có thể làm thế, bạn sẽ là một người hoàn toàn khác. Giai đoạn hai là giai đoạn của việc phát điên hoàn toàn.
Giai đoạn ba là giai đoạn tạo ra âm thanh "hoo." Bạn phải phát ra âm thanh "hoo" trong khi liên tục nhảy lên nhảy xuống trong 10 phút. Âm thanh "hoo" giống như một cái búa – bạn phải búa với nó. Trong cơ thể bạn, có một năng lượng cư ngụ ngay gần trung tâm sex của bạn và yoga gọi nó là kundalini – hay người ta có thể gọi nó bất cứ tên nào người ta muốn; những nhà khoa học bây giờ gọi nó là "sinh điện". Nó được ẩn giấu ở đó, và nếu một âm thanh sâu và mạnh của "hoo"được phát ra, thì cái năng lượng ngủ ngầm đó, cái năng lượng đang ngủ đó được kích hoạt. Những hiền nhân cổ xưa đã dùng cái sự ví von này: con rắn ngồi cuộn tròn lên – và khi nó bị chạm vào, nó nhấc mình lên với  miếng da trùm đầu mở ra, và cái khúc cuộn biến đi. Nếu một con rắn được đánh thức đủ, nó gần như đứng trên cái đuôi của nó. Y hệt như vậy, năng lượng này đang ngủ ngầm bên trong ta. Nếu nó bị đánh, nó khởi sự nhấc đầu lên.
Nhưng việc "đánh" này chỉ nên được làm khi bạn đã có cơ hội để ném ra ngoài sự điên rồ của bạn từ bên trong. Nếu không, nếu nó nhấc đầu lên giữa tất cả cái điên rồ của bạn, thì bạn thực sự phát điên. Do vậy, nhiều lần nhiều kẻ tìm kiếm đã phát điên. Lý do là họ khởi sự đánh thức kundalini của họ mà không làm sạch mình một cách triệt để.  Họ phát điên, là bởi vì họ không có một thái độ khoa học. Trước hết, phải thanh tẩy, làm sạch.
Do vậy, hai giai đoạn đầu là để thanh tẩy bạn một cách triệt để. Giai đoạn thứ nhất là để khơi dậy tất cả những năng lượng bên trong bạn, giai đoạn hai là để ném ra ngoài tất cả những thứ mà xung đột với những năng lượng được khơi dậy. Rồi giai đoạn thứ ba, là để đánh thức cái kundalini đang nằm ngủ bên dưới.
Do vậy, trong 10 phút, bạn phải dùng âm thanh "hoo" với cường độ cao nhất. Và rồi, trong giai đoạn bốn, bạn phải nằm xuống giống như một tử thi, như thể bạn không có mặt ở đó chút nào – hoàn toàn yên lặng. Bạn phải để cho cơ thể bạn thư giãn hoàn toàn, y như thể bạn đã chết. Với hai mắt nhắm, bạn phải ở trong tư thế chờ đợi, lặng lẽ bên trong. Nhiều cái sẽ xảy ra. Trong sự chờ đợi nội tại đó, nhiều cái sẽ xảy ra.
Tôi hiểu rằng, chẳng sớm thì muộn, phương pháp thiền này, mà tôi đang trao cho bạn, sẽ là một liệu pháp có ý nghĩa lớn, và nó sẽ trở thành một cách chữa trị những người mắc bệnh tâm thần, và hồi phục sức khỏe cho họ. Và nếu mọi đứa trẻ trong trường đều có thể trải qua phương pháp thiền này, thì nó sẽ được cứu thoát khỏi chứng điên suốt đời mình. Nó sẽ không bao giờ phát điên; nó sẽ được miễn dịch khỏi bệnh này, bởi vì lúc ấy nó sẽ là chủ nhân của riêng mình, chủ nhân của thể xác và tâm trí mình.
Khi một người thiền định, y rũ bỏ mọi sự bất an. Sự suy nghĩ của y ngừng lại, những cử động cơ thể y ngừng lại; y trở thành giống như một bức tượng cẩm thạch…  hoàn toàn bất động. Trong khoảnh khắc đó, y là một hồ năng lượng. Y vô cùng hùng mạnh. Nếu bạn thấy ai đó đang thiền định, ngồi kề bên anh ta bạn sẽ được lợi lạc. Ngồi bên cạnh ai đó đang ở trong một trạng thái thiền, bạn cũng sẽ di chuyển vào trong thiền định. Năng lượng của anh ta sẽ kéo bạn ra khỏi mớ hỗn độn của bạn. Thiền định không là gì khác hơn sự nghỉ ngơi tuyệt đối.
Làm thế nào bạn đạt tới sự nghỉ ngơi tuyệt đối, việc ấy tùy thuộc vào nhiều điều. Có một ngàn lẻ một phương pháp để tạo ra sự nghỉ ngơi đó. Những phương pháp của riêng tôi là, trước tiên tôi muốn bạn trở nên càng bất an càng tốt, để cho không có gì treo lủng lẳng bên trong bạn; sự bất an đã được ném ra ngoài – rồi, di chuyển vào trong sự nghỉ ngơi. Và sẽ không có sự rối loạn, nó dễ dàng hơn.
Trong thời của Đức Phật, những phương pháp năng động như thế không được cần đến. Con người đơn giản hơn, chính thực hơn. Họ sống một cuộc sống thực hơn. Bây giờ người ta đang sống một cuộc sống rất bị ức chế, rất không thực. Khi họ không muốn mỉm cười, họ mỉm cười. Khi họ muốn giận, họ bày tỏ sự từ bi. Con người trở nên giả dối, và toàn bộ khuôn mẫu sống đều giả dối. Toàn bộ nền văn hóa giống như một sự giả dối lớn. Người ta chỉ đang đóng kịch, chứ không phải sống. Nhiều cái bị để treo lủng lẳng, nhiều kinh nghiệm không hoàn chỉnh tiếp tục được thu thập, được chất đống, bên trong tâm trí họ.
Do vậy, chỉ ngồi một cách trực tiếp trong im lặng sẽ không giúp được gì. Cái khoảnh khắc mà bạn ngồi im lặng, bạn sẽ thấy đủ thứ "tạp pí lù" đang di chuyển bên trong bạn. Bạn sẽ cảm thấy hầu như không thể nào im lặng được. Trước hết, hãy ném đi những cái đó, để đạt tới một trạng thái nghỉ ngơi tự nhiên. Nhưng thiền định thực thụ chỉ bắt đầu khi bạn ở trong sự nghỉ ngơi.
Tất cả những loại thiền năng động đều chỉ là chuẩn bị cho thiền thực thụ. Chúng chỉ là những đòi hỏi cơ bản cần phải được chu toàn để cho thiền định có thể xảy ra. Đừng xem chúng như là thiền định; chúng chỉ là sự dẫn nhập, chỉ là một lời tựa. Thiền thực thụ chỉ bắt đầu khi mọi hoạt động đã ngừng lại – hoạt động của cơ thể và hoạt động của tâm trí.
Thiền định không phải là "thiền trên" một cái gì đó, mà chỉ là "là" chính mình – không di chuyển khỏi trung tâm, không có sự di chuyển nào cả…  chỉ là chính mình một cách toàn bộ, quá toàn bộ đến mức không có thậm chí một ánh lập loè nào…  Ngọn lửa bên trong vẫn cứ bất động. "Cái khác" đã biến đi; chỉ mình  bạn có mặt. Không có một tư tưởng riêng lẻ nào ở đó. Toàn bộ thế giới đã biến đi. Tâm trí không còn ở đó; chỉ mình bạn có mặt, trong sự thuần khiết tuyệt đối của bạn.
Xem tiếp Chương 18 Quay về Mục lục

Chương 16: Tôn giáo phi tôn giáo

Osho - Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho)
Phần III: Di sản
Tôi sẽ ra đi, nhưng tôi đang tạo ra một gợn sóng mà sẽ vẫn còn lại. Bạn sẽ ra đi, nhưng bạn đã yêu ai đó, và tình yêu ấy tạo ra một gợn sóng mà sẽ vẫn còn lại, vẫn còn lại, còn lại mãi. Nó không bao giờ có thể biến đi; nó sẽ có những âm vang của riêng nó… Nó sẽ tiếp tục rung động. Bạn ném một hòn sỏi nhỏ xuống hồ, và gợn sóng khởi lên. Hòn đá chìm rất nhanh xuống đáy hồ, song những gợn sóng vẫn tiếp tục. Chúng tiếp tục di chuyển về phía bờ – và sự hiện hữu này thì không có bờ bến.
Tôi đang nói chuyện với bạn… Trong khoảnh khắc này, một cái gì đó đang trải qua giữa bạn và tôi. Tôi sẽ ra đi, bạn sẽ ra đi, nhưng cái mà đang trải qua, sẽ còn lưu lại. Cho nên những lời này sẽ tiếp tục âm vang, tái âm vang. Người nói sẽ không còn ở đó, người nghe sẽ không còn ở đó, nhưng cái mà đang trải qua giữa hai người trong khoảnh khắc này đã trở nên thành phần của vĩnh cửu. Và không có bờ bến nào, cho nên những gợn sóng này sẽ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục mãi.

Chương 16: Tôn giáo phi tôn giáo


Tôi vẫn mãi không nhất quán, để cho bạn sẽ không bao giờ có thể tạo ra một giáo điều từ tôi. Bạn sẽ đơn giản "phát khùng" nếu bạn cố gắng. Tôi đang để lại một cái gì đó thật sự khủng khiếp cho những nhà học giả; họ sẽ không thể hiểu mô tê gì về nó. Họ sẽ phát khùng – và họ đáng bị như thế, họ nên phát khùng! Nhưng không ai có thể tạo ra một giáo điều "chính thống" từ tôi, điều đó là bất khả. Từ những lời của tôi, bạn có thể “ cháy sáng”, nhưng mà bạn sẽ không thể tìm ra bất cứ loại thần học, chủ nghĩa giáo điều nào.
Bạn có thể tìm thấy một lối để sống, chứ không phải một giáo điều để rao giảng. Bạn có thể tìm thấy một phẩm chất nổi loạn để hấp thụ, nhưng bạn sẽ không tìm thấy một chủ đề cách mạng để theo đó mà tổ chức. Những lời của tôi không chỉ đang bốc lửa, tôi cũng đang đặt thuốc nổ chỗ này chỗ kia, mà nó sẽ tiếp tục nổ trong nhiều thế kỷ. Tôi đang đặt thuốc nổ nhiều hơn số lượng cần thiết  – tôi không bao giờ dựa vào những vận may.  Hầu như mỗi câu nói của tôi đều có dự định tạo ra sự rắc rối cho bất cứ ai muốn tổ chức một tôn giáo xung quanh tôi.
Vâng, các bạn có thể có một cộng đồng lỏng lẻo, một công xã. Hãy nhớ cái từ "lỏng lẻo": mọi người đều độc lập, mọi người đều tự do sống theo cách của riêng mình, thuyết minh tôi theo cách của riêng mình, tìm kiếm bất cứ cái gì anh ta muốn tìm kiếm. Anh ta có thể tìm kiếm cái cách mà anh ta muốn sống – và mọi người sống theo cách của chính mình.
Không cần phải quyết định tôn giáo của tôi là cái gì. Tôi đang để ngỏ nó – hai đầu. Bạn có thể "chế ra" một định nghĩa cho chính bạn – nhưng nó chỉ dành cho riêng bạn thôi, và bạn sẽ phải liên tục thay đổi nó. Bạn không thể tiếp tục nắm giữ nó như một vật chết trong tay bạn. Bạn sẽ phải thay đổi nó, và nó sẽ tiếp tục thay đổi bạn một cách đồng thời.
Kytô giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo, Hồi giáo – đây chỉ là những ý thức hệ, những giáo điều, những tín điều; chúng chỉ là những "tôn giáo sùng bái". Tôn giáo đích thực không có tên gọi, nó không thể có một cái tên nào. Phật sống nó, Jesus sống nó – nhưng hãy nhớ, Jesus không phải là một người Kytô giáo, và Phật không phải là một người Phật giáo, Ngài chưa bao giờ nghe về cái từ đó. Những người tôn giáo đích thực chỉ đơn giản là tôn giáo, họ chưa từng giáo điều. Có 300 tôn giáo trên thế giới – đó là một chuyện hết sức phi lý! Nếu chân lý là một, làm thế nào có thể có đến 300 tôn giáo? Chỉ có 1 khoa học, nhưng tại sao lại có đến 300 tôn giáo?
Nếu khoa học về chân lý khách quan là một, thì tôn giáo cũng là một, bởi vì nó nhằm vào chân lý chủ quan, phía "bên trong" của chân lý. Nhưng cái tôn giáo đó không thể có một cái tên nào, nó không thể có bất cứ ý thức hệ nào.
Tôi chỉ dạy duy nhất thứ tôn giáo đó. Do vậy, nếu một ai đó hỏi bạn, tóm lại "giáo pháp" của tôi là gì, bạn sẽ không thể trả lời – bởi vì tôi không dạy những nguyên lý, những ý thức hệ, những giáo điều, những học thuyết. Tôi dạy bạn một tôn giáo phi tôn giáo, tôi dạy bạn nếm một chút hương vị của nó.Tôi cho bạn cái phương pháp để trở nên dễ thụ cảm hơn với cái thiêng liêng.  Tôi không nói gì về cái thiêng liêng, tôi chỉ đơn giản nói với bạn, "Đây là cái cửa sổ – hãy mở nó ra và bạn sẽ thấy bầu trời đêm đầy sao."
Thế nhưng, cái bầu trời đêm đầy sao đó thì không thể định nghĩa được. Một khi bạn thấy nó xuyên qua cửa sổ mở, bạn sẽ biết nó. Thấy là tin – và "thấy " cũng nên là "là" nữa. Không nên có niềm tin nào khác.
Do vậy, nỗ lực toàn bộ của tôi là có tính "hiện sinh", không có tính chất trí năng chút nào. Và chân lý đích thực thì có tính hiện sinh. Nó đã luôn xảy ra chỉ với một ít người và rồi nó biến đi khỏi trái đất bởi vì những "nhà trí thức" ngay lập tức chộp lấy nó và họ bắt đầu tạo ra những ý thức hệ đẹp đẽ từ nó – gọn gàng và sạch sẽ, hợp logic. Trong chính cái nỗ lực đó, họ hủy diệt vẻ đẹp của nó. Họ tạo ra những triết học, và tôn giáo biến mất. "Kẻ từ chương", nhà học giả, nhà thần học đều là kẻ thù của tôn giáo đích thực.
Do vậy, hãy nhớ: bạn không đang được điểm đạo vào trong bất cứ một tôn giáo nào; bạn chỉ đang được điểm đạo vào trong tính tôn giáo. Nó bao la, mênh mông, không giới hạn – nó giống như toàn bộ bầu trời.
Ngay cả bầu trời cũng không phải là cái giới hạn, cho nên hãy dang rộng đôi cánh của bạn mà không chút sợ hãi nào. Sự hiện hữu toàn bộ này thuộc về chúng ta; đây là đền thờ của chúng ta, đây là kinh điển của chúng ta. Ít hơn thế,  thì chỉ  là nhân tạo, được chế tạo bởi con người. Nó được chế tạo ở đâu, điều đó không quan trọng mấy – hãy cảnh giác về những tôn giáo nhân tạo để mà bạn có thể biết cái tôn giáo đích thực, cái không phải là nhân tạo. Và nó có sẵn trong cây cối, núi non, sông suối, tinh tú – trong bạn, trong những người vây quanh bạn – nó có mặt khắp nơi.
Khoa học là sự tìm kiếm chân lý trong thế giới khách quan và tôn giáo là sự tìm kiếm chân lý trong thế giới chủ quan. Thật vậy, chúng là hai cánh của một con chim, của một sự thăm dò  –  hai mặt. Rốt cùng, không cần phải có hai tên gọi. Sự gợi ý của riêng tôi, là: khoa học là một cái tên đẹp tuyệt vời, bởi vì nó có nghĩa là "sự biết”. Cho nên khoa học có hai mặt, y như mọi đồng xu đều có hai mặt. Sự biết trong chiều kích của vật chất bạn có thể gọi là khoa học khách quan, và sự biết trong chiều kích của nội giới của bạn – về bản thể nội tại của bạn, về ý thức của bạn – bạn có thể gọi là khoa học chủ quan. Không cần phải có từ tôn giáo.
Hai mặt của "khoa học" đều hoàn toàn tốt – và nó cùng là một sự tìm kiếm, chỉ cái hướng là khác nhau. Và sẽ là tốt, nếu chúng ta tạo ra một khoa học tối cao, mà là một tổng hợp, một sự đồng thời của khoa học bên ngoài và khoa học bên trong. Sẽ không cần quá nhiều tôn giáo như thế, và lúc đó, thậm chí không ai cần là một kẻ vô thần. Khi những kẻ hữu thần biến đi, thì không cần những kẻ vô thần nữa – họ chỉ là những phản ứng lẫn nhau. Có những kẻ tin vào Thượng đế, cho nên có những kẻ không tin vào Thượng đế. Khi những "kẻ tin tưởng" biến đi, thì đâu cần những kẻ "vô tín" nữa?
Không cần phải tin vào bất cứ cái gì – đó là cái nền tảng của khoa học. Đó là sự tiếp cận có tính khoa học với thực tại: đừng tin, hãy tìm hiểu, thăm dò.  Cái khoảnh khắc mà bạn tin, thì sự thăm dò ngừng lại. Hãy giữ cho tâm trí của bạn mở ra – đừng tin, cũng đừng không tin. Chỉ lưu lại trong tình trạng tỉnh táo, tìm kiếm và hoài nghi mọi sự cho đến khi bạn đến một điểm mà không thể nghi ngờ được nữa – đó là cái mà chân lý là. Bạn không thể hoài nghi nó. Đó không phải là vấn đề tin vào nó, đó là một hiện tượng hoàn toàn khác. Đúng hơn, nó là một sự chắc chắn, quá tràn ngập,  đến nỗi bạn không có cách nào hoài nghi nó.
Đây là sự biết. Và sự biết chuyển hóa một người thành một vị Phật, thành một kẻ chứng ngộ. Đây là cái đích của mọi sự tăng trưởng tâm linh của con người.
Mang đến cho tôn giáo một bước nhảy lượng tử, công trạng đó phải dành cho Adinatha, người lần đầu tiên rao giảng một tôn giáo không có Thượng đế – trước Phật Gautama 25 thế kỷ. Đó là một cuộc cách mạng cực lớn, bởi vì trước đó, không nơi nào trên toàn bộ thế giới, tôn giáo được quan niệm là có thể hiện hữu mà không có Thượng đế. Thượng đế vốn là một phần cốt yếu – trung tâm – của tất cả mọi tôn giáo: Kytô giáo, Do thái giáo, Hồi giáo. Nhưng việc biến Thượng đế thành trung tâm của tôn giáo đã khiến cho con người chỉ còn là cái ngoại vi. Quan niệm Thượng đế như là đấng sáng tạo ra thế giới biến con người thành ra chỉ là một con rối.
Đó là lý do tại sao trong tiếng Hebrew – ngôn ngữ của đạo Do thái giáo (Judaism) – con người được gọi là Adam. Adam có nghĩa là "bùn." Trong tiếng Ả Rập, con người được gọi là admi; nó đi từ cùng một căn ngữ như adam, và một lần nữa, nó cũng có nghĩa là "bùn". Trong tiếng Anh, mà sau cùng đã trở thành ngôn ngữ của Kytô giáo, cái từ "human" (thuộc về con người) đến từ chữ humus, và humus có nghĩa là "bùn". Đương nhiên, nếu Thượng đế là đấng sáng tạo, thì Ngài phải sáng tạo từ một cái gì đó. Ngài phải tạo ra con người giống như một bức tượng, nên trước hết, Ngài lấy bùn để nặn ra con người và rồi thổi sự sống vào trong hắn. Nhưng nếu như vậy, thì con người mất hết mọi phẩm cách.
Và nếu Thượng đế là đấng sáng tạo ra con người và mọi thứ khác, thì toàn bộ ý tưởng đó là bốc đồng. Thượng đế đã từng làm cái gì trong vĩnh cửu, trước khi Ngài sáng tạo ra con người và vũ trụ? Theo Kytô giáo, Ngài chỉ mới tạo ra con người 4004 năm trước Jesus Christ. Vậy thì Ngài đã làm những gì qua suốt vĩnh cửu? Xem ra nó có vẻ bốc đồng. Hẳn không có bất cứ nguyên nhân nào; bởi vì, nếu Thượng đế phải tạo ra sự hiện hữu vì một nguyên nhân nào đó, thì có nghĩa là có những quyền lực cao hơn Thượng đế, có những nguyên nhân mà khiến cho Ngài sáng tạo. Hay có một khả năng, là đột nhiên ước vọng sáng tạo khởi lên trong Ngài – cái đó cũng không logic mấy về mặt triết học, bởi vì trong vĩnh cửu Ngài không có ước vọng nào – và không ước vọng thì quá chừng phúc lạc. Không thể tưởng tượng rằng, từ một kinh nghiệm về sự phúc lạc vĩnh cửu, một ước vọng lại khởi lên, khiến cho Ngài tạo ra thế gian. Ước vọng là ước vọng, bất luận bạn muốn làm một cái nhà hay trở thành thủ tướng, hay sáng tạo ra thế gian. Thượng đế không thể được quan niệm như là có những ước vọng, nên điều duy nhất còn lại, là Ngài bốc đồng, Ngài "lập dị". Vậy thì không cần một nguyên nhân và không cần ước vọng – chỉ là một sự bốc đồng.
Nhưng nếu toàn bộ hiện hữu chỉ được tạo ra từ một cơn bốc đồng, thì nó mất tất cả ý nghĩa, tất cả nghĩa lý. Và ngày mai một cơn bốc đồng khác có thể khởi lên trong Thượng đế, một ý muốn hủy diệt, giải tan toàn bộ vũ trụ. Cho nên, chúng ta đơn giản chỉ là những con rối trong bàn tay của một Thượng đế độc tài, một kẻ có mọi quyền lực nhưng không có một tâm trí lành mạnh – tóm lại, một kẻ bốc đồng.
Chắc hẳn Adinatha phải là một thiền giả đã trải nghiệm những cơn định rất sâu, và chắc hẳn ông đã đi tới kết luận rằng, nếu có một vị Thượng đế, thì không có ý nghĩa nào trên thế gian. Nếu chúng ta muốn có ý nghĩa trên thế gian, thì Thượng đế phải được phế bỏ. Ông hẳn phải là một người có lòng dũng cảm to lớn. Người ta vẫn đang thờ phụng trong những nhà thờ, trong những synagogue, trong những đền thờ – thế nhưng con người Adinatha đó, 5000 năm trước chúng ta, đã đi tới một kết luận rất dứt khoát, rõ ràng, khoa học, rằng không có gì cao hơn con người, và rằng, bất cứ sự tiến hóa nào sắp diễn ra, đều ở bên trong con người, và trong ý thức của hắn.
Adinatha là người đầu tiên trong số 24 vị đạo sư trong Jaina giáo, và đây là bước nhảy lượng tử thứ nhất – Thượng đế đã bị phế bỏ. Cái công trạng đó không dành cho đức Phật, bởi vì Đức Phật đến sau Adinatha 25 thế kỷ. Nhưng một công trạng khác dành cho Đức Phật – Adinatha phế bỏ Thượng đế, nhưng không xoay xở thành công trong việc đặt thiền định vào thay chỗ. Trái lại, ông tạo ra chủ nghĩa khổ hạnh, sự khắc khổ, tra tấn thể xác – ăn kiêng, ở truồng, chỉ ăn một lần một ngày, không uống vào ban đêm, không ăn vào ban đêm, chỉ ăn những thực phẩm nhất định. Ông đã đi tới một kết luận triết học đẹp đẽ, nhưng cái kết luận đó chỉ là triết học, nó không có tính thiền định.
Khi bạn phế bỏ Thượng đế, bạn không thể có bất cứ nghi lễ nào, bạn không thể có sự thờ phụng, bạn không thể có sự cầu nguyện; một cái gì đó phải được thay thế. Ông thay vào đó sự khắc khổ, bởi vì con người trở thành trung tâm của tôn giáo của ông, và con người phải tự thanh tẩy mình. Sự thuần khiết trong quan niệm của ông, là con người phải ly cách khỏi thế gian, phải ly cách khỏi thể xác của riêng mình. Cái này làm méo mó mọi sự thể. Ông đã đi tới một kết luận rất có ý nghĩa, nhưng nó vẫn chỉ là một khái niệm triết học.
Adinatha đã phế bỏ Thượng đế nhưng để lại một khoảng chân không, và Đức Phật đổ đầy nó bằng thiền định. Adinatha đã tạo ra một tôn giáo không "Thượng đế".  Đức Phật tạo ra một tôn giáo thiền định.
Thiền định là đóng góp của Đức Phật. Cái điểm then chốt không phải là tra tấn thể xác; vấn đề là trở nên im lặng hơn, trở nên thư giãn hơn, trở nên bình an hơn. Nó là một cuộc hành trình nội tại để đạt tới trung tâm ý thức của riêng mình, và trung tâm ý thức của riêng mình là trung tâm của toàn bộ hiện hữu.
25 thế kỷ, một lần nữa, lại qua đi. Khái niệm có tính cách mạng của Adinatha về tôn giáo không Thượng đế đã bị chìm mất trong sa mạc của sự khắc khổ và sự tự tra tấn. Y hệt như vậy, ý tưởng của Phật về thiền định – một cái gì đó nội tại, mà không ai khác có thể nhìn thấy, chỉ có bạn mới biết bạn ở đâu, chỉ có bạn mới biết là bạn có đang tiến bộ hay không – ý tưởng này cũng bị chìm mất trong một sa mạc khác, và đó là tôn giáo có tổ chức, có định chế.
Tôn giáo nói rằng, không thể tin cậy những cá nhân riêng lẻ, bất luận họ có đang thiền định hay không. Người ta cần những cộng đồng, những đạo sư, những tu viện nơi mà họ có thể sống cùng nhau. Những ai mà ở trên một mức độ ý thức cao hơn, có thể quan sát những người khác và giúp họ. Đã trở thành cốt yếu, rằng những tôn giáo không nên bị rơi vào tay của những cá nhân; chúng nên được tổ chức và nên được ở trong tay của những ai mà đã đạt tới một mức thiền định cao.
Ban đầu, nó là tốt; trong khi Đức Phật còn sống, có nhiều người đạt tới sự chứng ngộ. Nhưng khi Đức Phật qua đời, và những người này qua đời, thì chính cái tổ chức mà được giả định là để giúp người ta thiền định, lại rơi vào tay giới tu sĩ, và thay vì giúp bạn thiền định, họ bắt đầu tạo ra những nghi thức xung quanh hình ảnh của Đức Phật. Đức Phật trở thành một vị thần khác. Adinatha phế bỏ Thượng đế, Đức Phật không bao giờ chấp nhận rằng Thượng đế hiện hữu – nhưng giới tu sĩ này không thể tồn tại mà không có một Thượng đế. Cho nên, có thể không có một Thượng đế – theo nghĩa là đấng sáng tạo – nhưng Đức Phật đã đạt tới "Thượng đế tính". Đối với những người khác, điều duy nhất là thờ phụng Đức Phật, có đức tin vào đức Phật, theo những nguyên lý của Đức Phật, sống cuộc sống theo "học thuyết" của Ngài; Đức Phật bị "chìm mất" trong cái tổ chức, sự bắt chước. Và tất cả họ quên đi cái điều cơ bản, đó là thiền định.
Toàn bộ nỗ lực của tôi là tạo ra một tôn giáo phi tôn giáo. Chúng ta đã thấy cái gì đã xảy ra với những tôn giáo có Thượng đế như là trung tâm. Chúng ta đã nhìn thấy cái gì đã xảy ra với quan niệm của Adinatha, tôn giáo không Thượng đế. Chúng ta đã thấy cái gì đã xảy ra với Đức Phật, tôn giáo không Thượng đế, nhưng lại có định chế.
Bây giờ, nỗ lực của tôi – y như người ta đã giải tan Thượng đế – là giải tan luôn cả "tôn giáo" nữa. Hãy để lại chỉ thiền định, để cho nó không thể bị quên đi trong bất cứ cách nào. Không có cái gì khác để thay thế nó. Không có Thượng đế nào, không có "tôn giáo" nào cả. Bằng từ "tôn giáo", tôi ngụ ý một tôn giáo có định chế, tín điều, nghi thức, giới tu sĩ.
Tôi muốn, tôn giáo lần đầu tiên tuyệt đối có tính cá nhân. Bởi vì tất cả những tôn giáo có định chế, bất luận có Thượng đế hay không có Thượng đế, đã dẫn nhân loại đi sai đường. Và nguyên nhân duy nhất chính là sự tổ chức, bởi vì sự tổ chức có những cách của riêng nó, mà đi ngược lại "tính thiền". Sự tổ chức thực sự là một hiện tượng chính trị, nó không phải là tôn giáo. Nó là một hình thức khác của quyền lực và ý chí quyền lực. Bây giờ mọi tu sĩ Kytô giáo đều hy vọng một ngày nào đó sẽ trở thành ít nhất một giám mục, trở nên một hồng y, trở nên một giáo hoàng. Đây là một đẳng trật mới, một chế độ thư lại mới – và bởi vì nó là tâm linh, không ai phản đối. Bạn có thể là một giám mục, bạn có thể là một giáo hoàng, bạn có thể là một cái gì đó. Nó không bị phản đối, bởi vì bạn không định cản trở cuộc sống của bất cứ ai; nó chỉ là một ý tưởng trừu tượng.
Nỗ lực của tôi là hủy diệt giới tu sĩ một cách hoàn toàn. Sau đó, chỉ còn lại Thượng đế, còn lại tôn giáo không Thượng đế; bây giờ, cách duy nhất là chúng ta nên phế bỏ Thượng đế và "tôn giáo" – cả hai, để cho giới tu sĩ không còn điều kiện nào để tồn tại. Rồi thì, con người được tuyệt đối tự do, hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự phát triển của riêng mình.
Cảm tưởng của tôi, là con người càng chịu trách nhiệm về sự phát triển của riêng mình, thì y càng khó trì hoãn nó lâu. Bởi vì nó ngụ ý, nếu bạn khốn khổ, bạn chịu trách nhiệm. Nếu bạn căng thẳng, bạn chịu trách nhiệm. Nếu bạn không thư giãn, bạn chịu trách nhiệm. Nếu bạn khổ, bạn là nguyên nhân của nó. Không có Thượng đế, không có giới tu sĩ mà bạn có thể đến và hỏi xin một nghi thức nào đó. Bạn được để lại một mình với sự khốn khổ của bạn – và không ai muốn mình bị khốn  khổ.
Những tu sĩ tiếp tục cho bạn thuốc phiện, họ tiếp tục cho bạn hy vọng , "Đừng lo lắng, nó chỉ là một trắc nghiệm về đức tin của bạn, sự tin cậy của bạn. Và nếu bạn có thể băng qua sự khổ đau một cách im lặng và kiên nhẫn, thì trong thế giới bên kia cái chết, bạn sẽ được thưởng một cách hậu hĩnh." Nếu không có giới tăng sĩ, bạn phải hiểu rằng, bất cứ cái gì bạn là, bạn trách nhiệm về nó – không ai khác. Và cái cảm nhận rằng, "Tôi chịu trách nhiệm về sự khốn khổ của tôi" mở ra cánh cửa. Rồi thì bạn bắt đầu tìm những phương pháp để ra khỏi trạng thái khốn khổ này.
Và đó chính là "thiền". Nó đơn giản là trạng thái đối nghịch của khổ đau. Nó là trạng thái của sự nở hoa an bình, phúc lạc của bản thể, nó quá im lặng và quá phi thời gian, đến nỗi bạn không thể quan niệm rằng còn có thể có một cái gì tốt hơn thế. Và không có gì tốt hơn là trạng thái của một tâm thức thiền.
Do vậy, bạn có thể nói, rằng đây là những bước nhảy lượng tử:
Adinatha từ bỏ Thượng đế bởi vì ông thấy Thượng đế đang trở nên quá nặng nề trên con người; thay vì giúp con người trong sự phát triển của hắn, Thượng đế đã trở thành một gánh nặng. Nhưng ông quên thay thế Thượng đế bằng một cái gì đó. Con người sẽ cần cái gì đó trong những khoảnh khắc khốn khổ, trong sự khổ đau của hắn. Trước kia, hắn thường  cầu nguyện Thượng đế – nhưng bạn đã lấy đi Thượng đế, bạn đã lấy đi sự cầu nguyện của hắn, và bây giờ, khi hắn khốn khổ, hắn sẽ làm gì? Trong Jaina giáo, thiền định không có chỗ nào cả.
Tuệ giác của Phật là: Thượng đế đã bị phế bỏ, bây giờ khoảng trống đó nên được đổ đầy; nếu không, khoảng trống đó sẽ hủy diệt hắn. Ngài đặt vào đó sự thiền định – một cái gì đó thực sự chính thực – mà có thể làm thay đổi toàn bộ sự thể. Nhưng Ngài không ý thức – có lẽ Ngài đã không thể ý thức được, bởi vì có những điều mà bạn không thể ý thức trừ khi chúng xảy ra –rằng, không nên có tổ chức nào, rằng, không nên có giới tu sĩ, rằng, khi Thượng đế biến đi, thì tôn giáo cũng nên biến đi. Nhưng Ngài có thể được tha thứ, bởi vì Ngài đã không nghĩ về điều đó, và không có quá khứ nào để giúp Ngài thấy nó. Nó đến sau Ngài.
Vấn đề thực thụ nằm ở người tăng sĩ, và Thượng đế là phát minh của người tăng sĩ. Trừ khi bạn vứt bỏ người tăng sĩ, thì dù bạn có thể vứt bỏ Thượng đế, nhưng người tăng sĩ sẽ luôn luôn tìm kiếm những nghi thức mới, ông luôn tạo ra những vị thần mới.
Nỗ lực của tôi là để bạn lại một mình với thiền định, không có kẻ môi giới giữa bạn và sự hiện hữu. Khi bạn không ở trong thiền định, bạn bị tách khỏi sự hiện hữu, và đó là sự khổ đau của bạn. Cũng tương tự như khi bạn đem con cá ra khỏi đại dương, và ném nó lên bờ – sự khốn khổ và sự khổ đau và sự tra tấn mà nó trải qua, sự ao ước và nỗ lực để trở lại đại dương bởi vì đó là nơi nó thuộc về, nó là một phần của đại dương và nó không thể sống tách rời. Bất cứ sự khổ nào chỉ là dấu hiệu cho thấy rằng, bạn không ở trong sự hội thông với hiện hữu, rằng con cá không ở trong đại dương.
Thiền định không là gì khác ngoài sự rút lui của tất cả mọi rào chắn – những tư tưởng, cảm xúc, tình cảm – cái đó tạo ra một bức tường giữa bạn và hiện hữu. Cái khoảnh khắc chúng rơi rụng đi, bạn đột nhiên tìm thấy chính mình hòa điệu với cái toàn bộ; không chỉ hòa điệu, bạn thực sự phát hiện rằng bạn là cái toàn bộ. Khi một giọt sương rơi từ một lá sen vào trong đại dương, nó không thấy rằng nó là một phần của đại dương, nó phát hiện rằng nó là đại dương. Và phát hiện ra điều đó, là cùng đích tối hậu, sự thành tựu tối hậu. Không có cái gì vượt quá nó, cao hơn nó.
Như vậy, Adinatha phế bỏ Thượng đế nhưng không phế bỏ tổ chức, và bởi vì không có Thượng đế, tổ chức tạo ra những nghi thức. Nhìn thấy cái đã xảy ra cho Jaina giáo, rằng nó đã trở chủ nghĩa nghi thức, Đức Phật phế bỏ Thượng đế, Ngài bỏ tất cả nghi thức, và nhấn mạnh một cách chuyên nhất vào thiền định. Nhưng Ngài quên rằng, những tăng sĩ mà đã tạo ra những nghi thức trong Jaina giáo, thì định làm cái tương tự với thiền định. Và họ làm nó, họ biến chính Đức Phật thành một Thượng đế. Họ nói về thiền định, nhưng về cơ bản, những Phật tử là những kẻ thờ phụng Đức Phật – họ đi tới chùa, và thay vì Krishna hay Christ, có tượng Phật. Thượng đế không có mặt ở đó, khó tạo ra nghi thức – xung quanh thiền định, khó tạo ra nghi thức. Do vậy, họ đã tạo ra một bức tượng và họ bắt đầu nói, trong cùng cách mà mọi tôn giáo vẫn hằng làm, "Hãy có đức tin vào Đức Phật, hãy tin cậy vào Đức Phật, và bạn sẽ được cứu rỗi."
Cả hai cuộc cách mạng đều đã bị "chìm mất". Tôi muốn rằng, cái mà tôi đang làm thì không bị chìm mất. Cho nên tôi đang cố trong mọi cách có thể, phế bỏ tất cả những điều mà trong quá khứ đã từng là những rào chắn, để cho cuộc cách mạng tiếp tục và phát triển. Tôi không muốn ai đứng giữa cá nhân và sự hiện hữu. Không cầu nguyện, không tăng sĩ; một mình bạn là đủ để đối diện với bình minh, và bạn không cần ai thuyết minh cho bạn là bình minh nó đẹp ra sao.
Bạn ở đây, mọi cá nhân ở đây, toàn bộ hiện hữu là "có sẵn" cho bạn. Tất cả những gì mà bạn cần, là chỉ im lặng và lắng nghe sự hiện hữu. Không cần bất cứ tôn giáo nào, không cần bất cứ Thượng đế nào, không cần bất cứ giới tăng sĩ nào, không cần tổ chức nào.
Tôi tin cậy vào cá nhân một cách vô điều kiện. Cho tới nay, không ai từng tin cậy vào cá nhân trong một cách thức như thế. Cho nên, mọi thứ "râu ria" có thể được cất bỏ. Bây giờ, tất cả những gì được để lại cho bạn, là một trạng thái "thiền" –  mà chỉ đơn giản có nghĩa là một trạng thái của sự im lặng hoàn toàn. Từ "thiền định" làm cho nó có vẻ nặng nề hơn. Tốt hơn, nên gọi nó là một sự im lặng đơn giản, hồn nhiên và sự hiện hữu mở ra mọi vẻ đẹp với bạn.
Và khi nó tiếp tục phát triển, bạn tiếp tục phát triển, và sẽ đến một khoảnh khắc, khi mà bạn đã đạt tới chính chóp đỉnh của tiềm năng bạn – bạn có thể gọi nó là Phật tính, chứng ngộ, bhagwatta, "thượng đế tính", bất cứ cái gì – nó không có tên gọi nào, cho nên, bất cứ cái tên nào cũng được.
Xem tiếp Chương 17 Quay về Mục lục

Chương 15: Người đạo sư

Osho - Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho)
Phần II
Chương 15: Người đạo sư


Một buổi sáng đẹp, Phật Gautama đi dạo một vòng với thị giả của Ngài, Ananda. Trời đã vào thu; những thân cây đang trở nên hầu như trơ trụi, lá vàng đã rơi gần hết xuống lối đi. Gió đang lay nhẹ cành cây, tạo ra những âm thanh đẹp. Đi dạo trên những chiếc lá này, đức Phật vô cùng hạnh phúc… âm nhạc của những chiếc lá khô.
Ngài cầm lấy một vài chiếc lá. Ananda hỏi Ngài, "Bạch Thế tôn, con vẫn luôn muốn hỏi một điều, nhưng quá khó được riêng tư. Lúc nào Thế tôn cũng có người bao quanh. Hôm nay Thế tôn ở một mình trong khu rừng này, và con không thể cưỡng lại sự cám dỗ đó. Con muốn hỏi Thế tôn, "Có phải là Thầy đã nói hết mọi thứ cho chúng con, hay Thầy còn giữ lại một vài điều bí mật?"
Đức Phật nói, "Con có thấy những chiếc lá trong tay ta không? Và con có thấy những chiếc lá xung quanh khu rừng?"
Ananda nói, "Vâng, con thấy, nhưng con không hiểu…"
Đức Phật nói, "Con sẽ hiểu. Ta chỉ nói chừng này, và ta đã giữ bí mật về tất cả những chiếc lá khác ở trong toàn khu rừng."
Tình huống của tôi thì khác. Tôi đã nói toàn bộ khu rừng; chỉ có một điều tôi giữ bí mật, chỉ một chiếc lá.
Trước khi nhập diệt, Phật Gautama tuyên bố rằng Ngài sẽ trở lại sau 25 thế kỷ, và rằng tên Ngài sẽ là Maitreya (Di Lặc). Maitreya có nghĩa là "người bạn". Phật không trở lại; không có kẻ chứng ngộ nào từng trở lại, do vậy, đó chỉ là một cách nói mà thôi…
Cái mà Ngài đang nói thì có tầm quan trọng vô cùng lớn. Nó không dính dáng gì tới việc Ngài sẽ trở lại; Ngài không thể trở lại. Cái mà Ngài ngụ ý, là mối liên hệ cổ xưa giữa vị đạo sư và đệ tử sẽ trở nên lỗi thời sau 25 thế kỷ. Ngài không tiên đoán cái gì cả – chỉ nhờ tuệ giác, mà Ngài thấy rằng, như mọi sự đang thay đổi, như chúng đã thay đổi trong quá khứ và như chúng tiếp tục thay đổi, thì sẽ phải mất ít nhất 25 thế kỷ, để cho mối quan hệ giữa Thầy và đệ tử trở nên lỗi thời. Rồi thì vị thầy chứng ngộ sẽ chỉ là người bạn.
Tôi vẫn luôn không muốn là đạo sư đối với bất cứ ai. Nhưng người ta muốn có một đạo sư, họ muốn là đệ tử; do vậy, tôi đã đóng vai trò đó.
Những đạo sư không nói ra chân lý, cho dù họ muốn, họ cũng không thể; đó là điều bất khả. Vậy, chức năng của họ là gì? Họ tiếp tục làm cái gì? Họ không thể nói ra chân lý, nhưng họ có thể khơi gợi lên chân lý, nó đang thiếp ngủ trong bạn. Họ có thể khơi gợi nó, họ có thể thách thức nó. Họ có thể lay bạn dậy, họ có thể đánh thức bạn dậy. Họ không thể cho bạn Thượng đế, chân lý, niết bàn, bởi vì, trước hết, bạn đã có sẵn mọi cái đó trong mình. Bạn được sinh ra với nó. Nó là bẩm sinh, thuộc về bản tính. Nó chính là bản tính của bạn. Cho nên bất cứ ai mà làm ra vẻ như y cho bạn chân lý, thì y chỉ đơn giản đang khai thác sự ngu xuẩn của bạn, sự ngây thơ, sự khờ khạo của bạn. Y là kẻ tinh ranh – tinh ranh và hoàn toàn dốt nát, nữa. Y không biết gì; ngay cả một thoáng về chân lý cũng đã không xảy ra với y. Y là một đạo sư giả hiệu.
Chân lý không thể được ban cho; nó đã có sẵn nơi bạn. Nhưng nó có thể được gợi dậy, nó thể được khơi gợi. Một "bối cảnh" có thể được tạo ra, một không gian nào đó có thể được tạo ra mà trong đó nó chân lý khởi lên trong bạn, và bạn không còn ngủ nữa, trở nên tỉnh thức.
Chức năng của vị đạo sư thì phức tạp hơn bạn nghĩ rất nhiều. Sự thể có lẽ đã dễ dàng hơn nhiều, đơn giản hơn nhiều, nếu chân lý có thể được truyền đạt. Nhưng nó không thể được truyền đạt; do vậy, những cách thức và phương tiện gián tiếp phải được chế tác.
Tân Ước có một câu chuyện đẹp đẽ về Lazarus. Những người Kytô giáo đã bỏ mất toàn bộ cái điểm then chốt của nó. Christ thì quá không may – Ngài đã rơi nhầm chỗ, vào trong một đám người không phù hợp. Không có lấy một nhà thần học Kytô giáo nào đã từng có thể khám phá ra ý nghĩa của câu chuyện về Lazarus, cái chết và sự phục sinh của ông ta.
Lazarus chết. Ông ta là anh trai của Mary Magdalene và Martha, và là một kẻ rất sùng mộ Jesus. Jesus thì đang ở xa; vào lúc Ngài nhận được tin và lời mời – "Xin hãy đến ngay" – thì hai ngày đã trôi qua. Và lúc Ngài đến nơi của Lazarus, bốn ngày đã trôi qua. Nhưng Mary và Martha đang đợi Ngài – sự tin cậy của họ là như vậy. Cả làng đang cười nhạo họ. Trong mắt dân làng, họ ngu xuẩn, bởi vì họ đang giữ cái tử thi trong một cái hang; họ đang quan sát, ngày này qua ngày nọ, canh giữ tử thi. Cái tử thi bắt đầu bốc mùi; nó đang thối rữa.
Dân làng đang nói, "Các người là những những kẻ khờ! Jesus không thể làm gì được đâu. Khi ai đó chết, thì y đã chết rồi!"
Jesus đến. Ngài đến cái hang – Ngài không bước vào trong hang – Ngài đứng bên ngoài và gọi Lazarus ra. Dân làng đã tụ họp lại. Hẳn họ đang cười: "Người đàn ông này có vẻ điên!"
Ai đó nói với Ngài, "Ông  đang làm gì thế? Ông ta chết rồi! Ông ta đã chết bốn ngày. Thật vậy,  khó mà vào trong hang – thi thể ông ta đang bốc mùi. Không thể được! Ông đang gọi ai?"
Nhưng, một cách bình thản, Jesus cứ gọi đi gọi lại, "Lazarus, hãy đi ra!"
Và đám đông bị bất ngờ: Lazarus bước ra khỏi hang – lắc lư, bị sốc, như thể vừa ra khỏi một giấc ngủ say, như thể ông ta đã rơi vào trong một cơn hôn mê. Chính ông ta không thể tin cái đã xảy ra, tại sao ông ta đã ở trong hang.
Thật ra, đây chỉ là một cách nói lên chức năng của một vị đạo sư là cái gì. Bất luận Lazarus có thực sự chết hay không, đó không phải là vấn đề. Jesus có khả năng làm hồi sinh người chết hay không, đó không phải là vấn đề. Bị dính kẹt vào những câu hỏi ngu xuẩn này thì thật là buồn cười. Chỉ có những học giả mới có thể ngốc nghếch như vậy. Không người nào có hiểu biết sẽ nghĩ rằng đây là một cái gì đó có thực, có tính lịch sử. Ý nghĩa của nó còn phong phú hơn thế nhiều! Nó không phải là một sự kiện, nó là một chân lý. Nó không phải là một cái gì đó xảy ra trong thời gian, nó là một cái gì hơn thế – một cái gì đó xảy ra trong vĩnh cửu.
Tất cả các bạn đều chết. Tất cả các bạn đều ở trong tình huống như Lazarus. Các bạn đang sống trong những hang tối. Tất cả các bạn đang bốc mùi và đang phân hủy… bởi vì cái chết không phải là một cái gì đó mà một hôm xảy đến bất ngờ. Bạn đang chết mỗi ngày; ngay từ lúc sinh ra, bạn đã và đang chết. Nó là một tiến trình dài; phải mất 70, 80, 90 năm để hoàn tất nó. Cứ mỗi  khoảnh khắc, một cái gì đó của bạn chết đi, nhưng bạn tuyệt đối không nhận thức về toàn bộ tình huống. Bạn tiếp tục như thể bạn đang sống; bạn tiếp tục như thể bạn biết cuộc sống là cái gì.
Chức năng của một đạo sư là gọi bạn ra: "Lazarus, hãy ra khỏi hang! Hãy ra khỏi nấm mồ của ngươi! Hãy ra khỏi cái chết của ngươi."
Vị đạo sư không thể cho bạn chân lý, nhưng ông ta có thể khêu gợi chân lý. Ông có thể khuấy động một cái gì đó bên trong bạn. Ông có thể khởi động trong bạn một tiến trình mà sẽ làm cháy lên một đốm lửa, một ngọn lửa. Bạn là chân lý – chỉ có điều, là quá nhiều bụi bặm đã bám quanh bạn. Chức năng của vị đạo sư là "thanh tẩy": ông phải cho bạn tắm rửa, một cái vòi sen, để cho bụi bặm biến mất.
Đó chính xác là ý nghĩa của lễ rửa tội Kytô giáo. Đó là cái mà John Tẩy Giả đang làm tại sông Jordan. Nhưng người ta tiếp tục hiểu lầm. Ngày nay, lễ rửa tội cũng diễn ra trong những nhà thờ; nó là vô nghĩa. John Tẩy Giả đang chuẩn bị để người ta sẵn sàng cho một cuộc tắm rửa bên trong. Khi họ sẵn sàng, ông sẽ dẫn họ một cách biểu tượng vào trong sông Jordan. Việc tắm rửa đó có tính biểu tượng – biểu tượng rằng vị đạo sư có thể cho bạn một sự tắm rửa. Và bỗng nhiên mọi sự rõ ràng, mọi sự đều sáng tỏ. Sự sáng tỏ đó là sự chứng ngộ.
Thiền sư vĩ đại, Daie, nói, "Tất cả lời dạy của những hiền nhân, thánh nhân, những đạo sư, đều nhằm thuyết giảng duy nhất một điều: chúng là những bình luận về tiếng kêu hốt nhiên của bạn, "A, Cái Này!"
Khi đột nhiên bạn sáng tỏ, và một niềm vui và nỗi hân hoan lớn khởi lên trong bạn và toàn bộ bản thể bạn, mọi thớ thịt của cơ thể bạn, tâm trí bạn, và linh hồn bạn nhảy múa và bạn nói, "A, cái này, Alleluia!" – một  tiếng kêu lớn của niềm vui khởi lên trong bản thể bạn – đó là sự chứng ngộ. Bỗng nhiên nước mắt chảy xuống từ những cái rui trên mái nhà. Bạn trở nên một phần của vũ điệu vĩnh cửu của sự hiện hữu.
Auden nói:
Hãy nhảy múa cho đến khi những vì sao đi xuống từ những cái rui mái nhà!
Nhảy múa, nhảy múa, cho đến khi bạn ngã xuống!
Vâng, nó xảy ra – nó không phải là cái gì đó mà bạn phải làm. Nó là cái gì đó mà cho dù bạn muốn mình không làm, bạn sẽ thấy là không thể được; bạn sẽ thấy rằng không thể cưỡng lại.
Bạn sẽ phải nhảy múa.
Vẻ đẹp của cái này, của bây giờ, niềm vui rằng sự hiện hữu “ là” và sự gần gũi của nó… Vâng, những vì sao đi xuống từ những cái rui mái nhà. Chúng quá gần gũi, đến nỗi bạn có thể sờ vào chúng; bạn có thể nắm giữ chúng trong hai bàn tay bạn.
Daie có lý. Ông nói: Mọi lời dạy mà những hiền nhân thuyết giảng, không là gì ngoài những bình luận về tiếng kêu hốt nhiên của bạn, "A, Cái này!"
Toàn bộ trái tim đang nói, "Aha!" và sự im lặng theo sau nó, và sự bình an, và niềm vui, và sự gặp gỡ, và sự hợp nhất và cái kinh nghiệm đại lạc, sự ngây ngất…
Những vị đạo sư không dạy chân lý; không có cách nào để dạy nó cả. Nó là một sự chuyển giao vượt lên kinh điển, vượt lên ngôn từ. Nó là một sự chuyển giao. Nó là năng lượng khơi gợi năng lượng bên trong bạn. Nó là một loại kinh nghiệm có tính "đồng đại".
Cái ego của vị đạo sư đã biến đi; ông là một niềm vui thuần túy. Và một cách chậm rãi, người đệ tử ngồi cạnh vị đạo sư tham dự vào niềm vui của ông, của bản thể ông. Ăn và uống từ nguồn suối vĩnh cửu, không thể tát cạn đó – Aes Dhammo Sanatano. Một ngày nào đó – người ta không thể đoán trước khi nào ngày ấy đến; nó là không thể dự đoán – một ngày nó bỗng nhiên xảy ra. Một tiến trình đã bắt đầu trong bạn, mà nó tiết lộ cái chân lý của bản thể bạn cho bạn. Bạn đối mặt với chính mình. Thượng đế không ở nơi nào khác, Ngài ở đây, bây giờ.
Bạn phải tiếp cận vị đạo sư với tình yêu lớn, với sự tin cậy lớn, với một trái tim cởi mở. Bạn không nhận biết bạn là ai. Nhưng ông nhận biết ông là ai, và ông nhận biết bạn là ai. Người ta nói rằng, con sâu bướm có thể không nhận biết rằng nó có thể trở thành một con bướm. Các bạn là những con sâu bướm – những bồ tát. Tất cả mọi con sâu bướm đều là những bồ tát và tất cả những bồ tát đều là những con sâu bướm. Một bồ tát có nghĩa là một người mà có thể trở thành một con bướm, có thể trở thành một vị Phật, là một vị Phật trong hạt giống, trong yếu tính. Nhưng làm thế nào con sâu bướm có thể nhận biết rằng nó có thể trở thành một con bướm? Cách duy nhất là giao cảm với những con bướm, thấy những con bướm đang di chuyển trong gió, trong nắng. Thấy chúng bay vút lên cao, thấy chúng di chuyển từ bông hoa này sang bông hoa nọ, thấy vẻ đẹp của chúng, màu sắc của chúng, thì một ước vọng sâu xa, một hoài vọng có thể khởi lên trong con sâu bướm: "Mình cũng có thể giống như vậy không?" Trong chính khoảnh khắc đó, con sâu bướm đã bắt đầu tỉnh dậy, một tiến trình đã được khởi động.
Mối quan hệ thầy-trò là mối quan hệ giữa một con sâu bướm và một con bướm, một tình bạn giữa một con sâu bướm và một con bướm. Con bướm không thể chứng tỏ rằng con sâu bướm có thể trở thành một con bướm; không có cách nào, qua con đường thuần lý. Nhưng con bướm có thể khơi gợi một hoài bão trong con sâu bướm – cái đó là có thể được.
Vị đạo sư giúp bạn đạt tới kinh nghiệm của riêng bạn. Ông không cho bạn kinh Veda, kinh Koran, Kinh Thánh; ông ném bạn về với chính mình. Ông làm cho bạn nhận thức cái cội nguồn nội tại của bạn. Ông làm cho bạn nhận thức cái "tinh túy" của riêng bạn, thần tính của riêng bạn. Ông giải phóng bạn khỏi những kinh điển. Ông giải phóng bạn khỏi sự thuyết minh của những người khác. Ông giải phóng bạn khỏi tất cả tin tưởng. Ông giải phóng bạn khỏi mọi tư biện, mọi sự phỏng đoán. Ông giải phóng bạn khỏi triết học và tôn giáo và thần học. Ông giải phóng bạn, tóm lại, khỏi thế giới của ngôn từ – bởi vì ngôn từ là vấn đề.
Bạn đã trở nên bị ám ảnh quá nhiều với từ "tình yêu", đến nỗi bạn quên rằng tình yêu là một kinh nghiệm, không phải là một từ. Bạn trở nên quá bị ám ảnh với từ "Thượng đế" đến nỗi bạn quên rằng Thượng đế là một kinh nghiệm, không phải là một từ. Từ "Thượng đế" thì không phải là Thượng đế, từ "lửa" không phải là lửa, và từ "tình yêu" cũng không phải là tình yêu.
Vị đạo sư giải phóng bạn khỏi những từ ngữ, ông giải phóng bạn khỏi mọi loại triết học tưởng tượng. Ông mang bạn tới một trạng thái của sự im lặng không ngôn từ.
Sự thất bại của tôn giáo và triết học là, tất cả chúng đều trở nên những cái thay thế cho kinh nghiệm thực. Hãy đề phòng cái đó!
Vị đạo sư là một y sĩ – không phải của những bệnh thông thường của bạn, mà của những xung đột có tính hiện sinh của bạn.
Đó là lý do tại sao tôi đã và đang chiến đấu trên hai mặt trận.Tôi phải chiến đấu chống lại những truyền thống cũ, những tôn giáo cũ, những tín ngưỡng chính thống cũ, bởi vì chúng sẽ không bao giờ cho phép bạn mạnh khỏe và toàn bộ. Chúng sẽ làm cho bạn tàn tật. Bạn càng tàn phế, bạn càng trở nên một “vị thánh” vĩ đại hơn. Do vậy, một mặt, tôi phải chống lại bất cứ loại tư duy hay thần học nào mà phân chia bạn.
Thứ hai, tôi phải làm việc nhằm làm tăng trưởng bản thể nội tại của bạn.
Cả hai đều là thành phần của một tiến trình duy nhất: làm thế nào để biến bạn thành một con người toàn bộ, làm thế nào để tiêu diệt mọi rác rưởi mà đang ngăn bạn trở nên toàn bộ – đó là phần "tiêu cực". Và phần tích cực, là làm thế nào để làm cho bạn cháy lên với thiền, với sự tĩnh lặng, với tình yêu, với niềm vui, với bình an. Đó là phần tích cực trong "giáo huấn" của tôi.
Với phần tích cực của tôi thì không có vấn đề nào; tôi đã có thể đi vòng quanh thế giới dạy người ta thiền, sự bình an, tình yêu, sự tĩnh lặng – và có lẽ không ai đã chống đối tôi.
Nhưng nếu chỉ với phần tích cực đó, thì có lẽ tôi đã không có ích gì cho ai, bởi vì ai sẽ tiêu diệt mọi thứ rác rưởi đó? Và rác rưởi phải được loại bỏ trước tiên, nó đang làm tắc nghẽn lối đi.
Vị hiền nhân chỉ muốn bạn có cái nhìn sâu vào trong sự vật, để bạn có ánh sáng của riêng bạn. Nhưng bạn không muốn tuệ giác, bạn muốn những lời huấn thị rõ ràng, dứt khóat. Bạn không muốn tự mình nhìn thấy, bạn muốn được chỉ đạo. Bạn không muốn chấp nhận trách nhiệm của bạn đối với chính mình, bạn muốn ném toàn bộ trách nhiệm lên vai vị đạo sư, lên vai của hiền nhân. Rồi bạn cảm thấy thanh thản. Bây giờ ông chịu trách nhiệm; nếu một cái gì đó sai hỏng, ông chịu trách nhiệm. Và mọi sự nhất thiết sẽ bị sai hỏng, bởi vì trừ khi bạn nhận trách nhiệm của mình, thì sẽ không có gì đúng đắn.
Không ai có thể chỉnh đốn bạn, ngoài chính bạn.
Một con người tôn giáo đích thực được sinh ra ngay trong khoảnh khắc mà bạn chấp nhận trách nhiệm của bạn về chính mình, trong cái khoảnh khắc bạn nói, " Bất cứ cái gì mà tôi là, là sự lựa chọn của tôi – không phải của quá khứ nhưng của hiện tại. Nó là lựa chọn của tôi trong khoảnh khắc này, và nếu tôi muốn thay đổi nó, tôi tuyệt đối tự do để thay đổi nó. Không ai có thể ngăn trở tôi – không lực lượng xã hội nào, nhà nước nào, sử học nào, kinh tế học nào, động lực vô thức nào, có thể ngăn trở tôi. Nếu tôi quyết tâm thay đổi nó, thì tôi có thể thay đổi nó."
Ngay từ thời thơ ấu của bạn, bạn đã được dạy đừng chịu trách nhiệm. Bạn được dạy phải lệ thuộc. Bạn đã được dạy phải chịu trách nhiệm với cha bạn, mẹ bạn, gia đình bạn, tổ quốc bạn, mọi loại vớ vẩn. Nhưng bạn đã không được bảo cho biết rằng, bạn phải chịu trách nhiệm về chính mình, rằng không ai sẽ nhận trách nhiệm của bạn…
Tôi dạy bạn đừng chịu trách nhiệm với bất cứ ai – cha, mẹ, đất nước, tôn giáo, đường lối đảng,  đừng chịu trách nhiệm trước bất cứ ai. Bạn không chịu trách nhiệm!
Hãy chỉ chịu trách nhiệm trước chính bạn. Hãy làm bất cứ cái gì mà bạn cảm thấy muốn làm. Nếu nó sai, sự trừng phạt sẽ lập tức theo sau. Nếu nó đúng, thì phần thưởng sẽ lập tức theo sau, một cách tức thời; không có cách nào khác. Trong cách này, bạn sẽ bắt đầu phát hiện ra cái gì đúng, cái gì sai – tự mình. Bạn sẽ phát triển một sự nhạy cảm mới – người Ấn gọi nó là con mắt thứ ba. Bạn sẽ đầu thấy với một "nhãn quan" mới, một con mắt mới. Một cách tức thời, bạn sẽ biết cái gì sai, bởi vì trong quá khứ, quá nhiều lần bạn đã làm nó và luôn luôn chịu khổ vì hậu quả. Bạn sẽ biết cái gì đúng, bởi vì, bất cứ khi nào bạn làm, sự hiện hữu mưa rào xuống bạn những phúc lành. Nhân và quả luôn ở cùng nhau, chúng không bị tách rời bởi những tháng năm và những kiếp sống…
Đây là điều tôi ngụ ý, khi nói về việc chịu trách nhiệm trước chính bạn. Không có vị Thượng đế nào mà qua đó bạn có thể đổ trách nhiệm của bạn, nhưng bạn luôn tìm cách để đổ trách nhiệm lên ai đó, ngay cả một "kẻ khốn khổ" như tôi, người liên tục bảo bạn rằng, tôi không chịu trách nhiệm về bất cứ cái gì, về bất cứ ai. Thế nhưng, một cách nào đó, tận đáy sâu, bạn tiếp tục mang giữ cái ảo tưởng rằng hẳn là tôi đang đùa. Tôi không đang nói đùa. "Ông ấy là đạo sư của chúng ta," hẳn bạn đang nghĩ, "làm sao ông có thể nói rằng, ông không chịu trách nhiệm?" Nhưng bạn không hiểu. Đổ trách nhiệm của bạn lên tôi, bạn sẽ ở trong tình trạng chậm phát triển, trẻ con. Bạn sẽ không bao giờ phát triển.
Cách duy nhất để phát triển là chấp nhận mọi cái tốt, cái xấu, cái vui, cái buồn. Mọi sự mà xảy ra với bạn, bạn chịu trách nhiệm về chúng. Cái đó cho bạn tự do lớn.
Nếu tôi chịu trách nhiệm về một cái gì đó, thì chìa khóa những hành động của bạn là ở trong tay tôi. Tôi nói hãy nhảy múa, thì bạn nhảy múa; tôi nói hãy ngừng, thì bạn ngừng. Dĩ nhiên, con rối không thể chịu trách nhiệm về cái gì cả. Kẻ giật giây, đằng sau tấm màn, luôn luôn chịu trách nhiệm. Thượng đế là kẻ giật dây vĩ đại.
Cái khoảnh khắc tôi nói không có kẻ giật dây, không có Thượng đế, không có thánh nhân, mọi thứ đó đều là rác rưởi, tôi đang cố cho bạn tự do toàn bộ. Tôi đang làm cho bạn tuyệt đối chịu trách nhiệm về mọi thứ xảy ra, hay không xảy ra, với bạn. Hãy vui sướng với sự tự do này. Hãy vui sướng với sự hiểu biết vĩ đại này, rằng bạn chịu trách nhiệm về mọi thứ trong đời bạn. Điều này sẽ làm cho bạn trở thành cái mà tôi gọi là một cá thể. Và trở thành một cá thể, là biết tất cả những gì đáng phải được biết, là thể nghiệm tất cả những gì đáng được thể nghiệm. Là một cá thể là được giải phóng, là trở nên tỏ ngộ.
Phong trào sannyas không phải là của tôi. Nó là của bạn. Nó đã có mặt ở đây khi tôi chưa có mặt ở đây, nó sẽ ở đây khi tôi sẽ không còn ở đây. Phong trào sannyas chỉ đơn giản có nghĩa là phong trào của những kẻ tìm kiếm chân lý. Họ vẫn luôn có mặt ở đây. Dĩ nhiên, họ vẫn luôn bị tra tấn bởi quần chúng dốt nát: bị giết, bị mưu sát, bị đóng đinh – hay "bị" thờ phụng. Hãy nhớ: việc bạn đóng đinh hay bạn thờ phụng, thì cũng giống nhau thôi; cả hai đều là những cách để loại bỏ những người đó. Sự thờ phụng thì có văn hóa hơn. Chúng ta nói, "Ngài là hóa thân của Thượng đế, chúng tôi sẽ thờ phụng ngài. Nhưng chúng tôi sẽ không làm cái mà ngài nói – làm sao chúng tôi có thể làm được? Chúng tôi là những con người bình thường, còn ngài thì phi thường. Hoặc ngài là một vị tiên tri do Thượng đế phái đến, hoặc là một sứ giả, hoặc là đứa Con một của Thượng đế, hoặc ngài là một hiện thân của Thượng đế – ngài có thể làm những phép mầu."
Chúng ta đã tạo ra mọi loại phép mầu vì một lý do duy nhất: tạo ra một khoảng cách giữa những người vẫn hằng tìm kiếm chân lý và những người sau cùng đã tìm ra chân lý. Chúng ta không sẵn sàng đi với họ.
Vẫn luôn có một dòng gồm những kẻ tìm kiếm Thượng đế… Tôi gọi nó là sannyas. Nó vĩnh cửu. Nó không dính dáng gì đến tôi.
Hằng triệu người đã đóng góp vào nó. Tôi cũng đã góp phần của riêng mình. Nó sẽ trở nên ngày càng phong phú hơn. Khi tôi ra đi, ngày càng sẽ có thêm người đến và làm cho nó phong phú hơn. Cái sannyas cũ thì nghiêm nghị; tôi đã góp thêm vào đó một cảm thức về hài hước. Cái sannyas cũ thì buồn bã; tôi đã góp vào giọng hát, sự nhảy múa, tiếng cười… Tôi đã làm cho nó trở nên có tính người hơn.
Cái sannyas cũ thì, một cách nào đó, phủ định sự sống. Tôi làm cho nó khẳng định sự sống. Nhưng về bản chất, đó cũng là một sannyas. Cùng một sự tìm kiếm. Tôi đã làm cho nó phong phú hơn, tôi đã làm cho nó có nền móng nhiều hơn trong thế giới này, bởi vì toàn bộ giáo huấn của tôi là: "Hãy ở trong thế gian, nhưng đừng thuộc về thế gian."
Mỗi bước đi là một kỳ thi. Mỗi bước mà bạn đang băng qua là một kỳ thi. Cuộc sống là một cơ hội.
Tôi sẽ ra đi. Nhưng điều đó không có nghĩa là phong trào sannyas sẽ ra đi. Nó không thuộc về ai cả.
Y như khoa học không thuộc về Albert Einstein – thì tại sao cuộc tìm kiếm chân lý lại phải thuộc về ai đó? Thuộc về Phật Gautama? Thuộc về J. Krishnamurti? Hoặc thuộc về tôi? Hoặc thuộc về bạn?
Hệt như khoa học tiếp tục phát triển và mọi thiên tài khoa học tiếp tục đóng góp vào nó và sông Hằng tiếp tục trở nên ngày càng lớn hơn và rộng hơn, trở thành đại dương – trong cách tương tự, thế giới nội tại cần một khoa học. Thế giới khách quan có một khoa học. Thế giới bên trong cũng cần một khoa học và tôi gọi sannyas là khoa học của thế giới nội tại. Nó đã và đang phát triển, nhưng bởi vì nó đi ngược lại sự luyến chấp, sự ngu dốt, những mê tín của con người – những cái mệnh danh là những tôn giáo, nhà thờ, tu sĩ, giáo hoàng, shankaracharya…  đây là những kẻ thù của cuộc tìm kiếm nội tại, bởi vì cuộc tìm kiếm nội tại không cần tổ chức.
Phong trào sannyas không phải là một tổ chức, đó là lý do tại sao tôi gọi nó là một phong trào. Nó có tính cá thể. Người ta gia nhập – tôi đã khởi xướng một mình và rồi người ta bắt đầu đến và nhập bọn với tôi và chầm chậm, chầm chậm, đoàn lữ hành trở nên ngày càng lớn hơn. Nhưng nó không phải là một tổ chức, tôi không là lãnh tụ của ai cả. Không ai phải theo tôi. Tôi biết ơn rằng, bạn đã cho phép tôi chia sẻ cái phúc lạc của mình, tình yêu của mình, sự ngây ngất xuất thần của mình. Tôi biết ơn các bạn. Không ai là đệ tử của tôi, không ai là thấp hơn. Không có đẳng cấp. Nó không phải là một tôn giáo, nó là sự phi tôn giáo thuần túy, là chính cái yếu tính. Không phải là một bông hoa, nhưng chỉ là một hương thơm; bạn không thể chụp bắt được nó. Bạn có thể có kinh nghiệm về nó, bạn có thể được vây quanh bởi hương thơm nhưng bạn không thể chụp bắt được nó.
Những tôn giáo thì giống như những bông hoa chết mà bạn có thể tìm thấy trong những bộ Kinh Thánh, trong những Gita…  Khi chúng được đặt vào trong Kinh Thánh, chúng đang sống, chúng tỏa  hương, nhưng bây giờ chúng chỉ còn là xác chết. Mọi cuốn sách thánh đều là những tử thi, những bông hoa chết, và không là gì khác.
Chân lý, chân lý sống động, phải được khám phá bởi mỗi cá nhân, tự mình. Không ai có thể trao nó cho bạn.
Vâng, ai đó mà đã đạt tới nó có thể khơi lên một khao khát trong bạn, một ước vọng to lớn về nó. Tôi không thể cho bạn chân lý nhưng tôi có thể cho bạn ước vọng đạt tới nó.
Tôi không thể cho bạn chân lý, nhưng tôi có thể chỉ cho bạn mặt trăng. Cái ngón tay sẽ biến mất. Mặt trăng sẽ vẫn còn và cuộc tìm kiếm sẽ tiếp tục.
Bao lâu mà vẫn còn có một hữu thể người riêng lẻ trên trái đất, thì những bông hoa của sannyas sẽ tiếp tục nở hoa.
Xem tiếp Chương 16 Quay về Mục lục