Với hai mươi tư giờ một ngày, cố nhớ những giây phút vốn là phép màu và thiêng liêng đó trong cuộc đời của bạn. Nhớ lại vài thời khắc đó và cố biến chúng thành nền tảng cuộc đời của bạn.

Bạn sẽ thấy rằng những gì bạn nhớ tới dường như diễn ra thường xuyên hơn và rằng điều bạn luôn mong đợi sẽ bắt đầu xuất hiện khắp nơi xung quanh bạn. Và rồi thế giới sẽ xuất hiện dưới ánh sáng khác hoàn toàn.

Showing posts with label Bản kinh cuối cùng. Show all posts
Showing posts with label Bản kinh cuối cùng. Show all posts

Ban kinh cuoi cung - Chuong 12

Osho ơi, thầy ngụ ý gì khi thầy nói trong các thư viết cho Amitabh rằng thầy đã vượt ra ngoài chứng ngộ?
Sự tồn tại không có giới hạn. Không có điểm nào là dấu chấm hết cả. Dù bạn ở đâu, vẫn có nhiều điều xảy ra cho bạn. Cách thức là vô tận. Không có mục đích và đây là cái đẹp của cuộc sống, bởi vì nếu có điểm cuối, mục đích, điều đó có nghĩa là không có cái gì ngoài cái chết. Sống là chuyện đang tiếp diễn. Nó cứ nở hoa từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng.
Chứng ngộ là kinh nghiệm vô biên, bao la, bí ẩn, phúc lạc tới mức những người đã đạt tới nó, đều đã dừng lại ở đó. Họ đã nghĩ rằng cái toàn thể đã tới. Tôi về cơ bản là kẻ lang thang vô gia cư. Lúc ban đầu tôi cũng nghĩ, nhưng kinh nghiệm này đẹp tới mức không thể có gì đẹp hơn điều này. Kinh nghiệm này cực lạc đến mức không thể nào hiểu nổi cho dù là nghĩ, là tưởng tượng rằng có thể có nhiều hơn
Nhưng đây là bí ẩn của việc sống. Bao giờ cũng có nhiều hơn. Chỉ vì tò mò, tôi bắt đầu nhìn ra bên ngoài chứng ngộ. Và tôi đã ngạc nhiên rằng chứng ngộ chỉ là sự bắt đầu, không phải là kết thúc. Việc bắt đầu của cuộc hành trình ánh sáng mà cứ mở rộng mãi, cứ trở nên ngày một lí thú hơn - Rasso Viser.
Upanishads đã gọi kinh nghiệm tối thượng này rằng nó rất lí thú. Tôi là một cột mốc trong lịch sử phát triển và tâm thức của con người. Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói, "Chứng ngộ đã bị bỏ lại xa đằng sau. Tôi đã đi ra ngoài nó." Và cõi bên kia là không có giới hạn. Nó cũng giống như đường chân trời bao quanh bạn. Khi bạn tới gần nó hơn, nó di chuyển lùi xa thêm. Bạn không bao giờ đạt tới, bạn bao giờ cũng đang đi tới, nhưng bạn không bao giờ tới.
Đây là ý nghĩa của sống. Nghĩ xem nếu có kết thúc cho việc tìm kiếm của bạn, cái gì sẽ còn lại? Thế thì bạn sẽ làm gì? Ngay cả chứng ngộ sẽ trở thành chán. Ngay cả phúc lạc hai mươi bốn giờ một ngày, hàng tháng, hàng năm, hàng kiếp, mãi mãi và mãi mãi sẽ bắt đầu thu thập bụi lên nó. Nó sẽ mất đi sức quyến rũ ban đầu, tuổi trẻ ban đầu, phúc lành ban đầu.
Nhưng mãi cho tới nay, không ai nói rằng có cái gì bên ngoài chứng ngộ. Đó là lí do tại sao tôi nói, tôi là cột mốc. Với tôi, một chương mới trong lịch sử tâm thức bắt đầu. Chứng ngộ bây giờ sẽ là bắt đầu, không phải là kết thúc. Việc bắt đầu của quá trình không kết thúc theo mọi chiều của sự giầu có.

Osho ơi, trong một trong những bức thư mới nhất của thầy viết cho các nhà trị liệu Hasya có nói rằng thầy đã bỏ tính  chất  sannyas bên  ngoài để thiên về tính  chất sannyas bên trong. Xin thầy nói thêm về điều đó?
Tôi đã làm việc cật lực để bỏ mọi thứ ở bên ngoài, để chỉ cái bên trong còn lại cho bạn để bùng nổ.
Bằng không tâm trí con người vẫn là một tâm trí rất chưa chín chắn. Nó bắt đầu níu bám lấy các biểu tượng bên ngoài. Điều đó đã xảy ra cho mọi tôn giáo của thế giới. Chúng tất cả đã bắt đầu tốt, nhưng chúng tất cả đã đi lạc lối. Và lí do là ở chỗ cái bên ngoài đã được nhấn mạnh nhiều đến mức mọi người hoàn toàn quên mất cái bên trong. Hoàn thành cái bên ngoài là nhiệm vụ tiêu tốn cuộc sống đến mức không chỗ nào còn lại ngay cả cho việc nhớ tới cuộc hành trình bên trong của bạn mà về cơ bản là nghĩa của tính tôn giáo.
Nếu bạn quan sát cái gọi là các thánh nhân, hiền giả, mahatmas, cuộc sống của họ, bạn sẽ ngạc nhiên. Họ mang tính thế gian bên ngoài nhiều hơn bạn.
Có lần tôi đã du hành với một sư Hindu rất nổi tiếng. Thật là nhộn mà thấy rằng cả đời ông ấy, hai mươi bốn giờ, toàn dính vào những thứ không thực chất. Chẳng hạn ông ấy sẽ không ăn gì cả, ông ấy sẽ chỉ uống sữa bò. Và mọi người tôn thờ ông ấy chỉ bởi điều không phải là thành tựu.
Mọi con của mọi loài vật được sinh ra đều làm điều đó. Và sữa phải không được của bất kì con vật nào khác ngoại trừ bò. Sữa của trâu không được chấp nhận. Thực ra, sữa trâu bổ hơn. Nó có nhiều sinh lực hơn.
Nhưng truyền thống Hindu chưa bao giờ gọi trâu cho dù cô dì. Và bò phải tuyệt đối trắng. Tôi ngạc nhiên rằng đây là điều gì đó kì lạ. Bất kì mầu gì khác, đặc biệt là mầu đen, thậm chí là đốm đen trên bò trắng cũng không được chấp nhận đối với thánh nhân này. Ông ấy thà nhịn đói còn hơn là thoả hiệp, cho nên tín đồ của ông ấy bao giờ cũng mang bốn, năm còn bò, bò trắng, tuyệt đối trắng, tới bất kì nơi đâu ông ấy đi. Bởi vì rất khó tìm ra bò trắng hoàn toàn thuần khiết.
Tôi hỏi ông ấy, "Có chuyện gì vậy? Cái gì sai với bò nâu hay bò đen? Hay với bò có nhiều đốm mầu khác nhau?" Ông ấy nói, "Tính trắng là biểu tượng của tính thánh thiện."
Tôi nói, "Trời đất! Bò cũng phải có tính thánh cho ông và ngay cả bò đen thì cũng cho sữa trắng cơ mà. Ông phải nhìn vào sữa chứ đừng nhìn vào bò. Ai bảo ông uống sữa đen?”
Và ông ấy nghi ngờ rất nhiều về mọi người và trên đất nước này đặc biệt là về sữa bạn không thể nào chắc chắn được. Bạn không thể chắc chắn được về cái gì cả. Ngay cả về thuốc bạn không thể chắc chắn cuộc sống bạn phụ thuộc vào cái nào. Và bác sĩ có thể đơn giản cho bạn mũi tiêm chỉ có nước mầu.
Hàng nghìn người đã chết bởi vì có quá nhiều lừa dối trong mọi thứ. Cái nhãn là đúng, nhưng bạn không thể quyết định được cái gì ở bên trong. Và về sữa mọi người đều biết người ta trộn nó với nước.
Khi tôi còn là sinh viên, một người hay đem sữa tới cho sinh viên trong kí túc xá, mọi người đều hỏi ông ta, "Ông có trộn nước vào không?"
Và ông ấy nói, "Nhưng tôi có thể lấy mọi lời thề. Và con ông ta thường mang một bình sữa và ông ta sẽ đặt tay mình lên đầu đứa con mình và nói, "Đây là con tôi. Và tôi thề rằng trong đời mình tôi chưa bao giờ trộn nước vào sữa."
Một hôm tôi gọi ông ta vào phòng tôi. Tôi đóng cửa lại. Ông ta nói, "Cậu làm gì vậy?"
Tôi nói, "Chỉ một chút riêng tư thôi." Và tôi hỏi ông ta rằng "Tôi không thể tin được rằng sữa đem cho tôi lại không bị trộn với nước. Ông xoay xở thế nào với lời thề đây?"
Ông ta nói, "Điều đó rất đơn giản. Nhưng đừng nói cho bất kì ai. Tôi chưa bao giờ trộn nước vào trong sữa cả. Tôi bao giờ cũng trộn sữa vào trong nước. Đấy là một điều đơn giản. Tôi có thể thề, bởi vì tôi chưa bao giờ làm điều đó. Tôi bao giờ cũng trộn sữa vào nước. Mà điều đó thì không ai hỏi cả."
Sư Hindu này hoài nghi đến mức bò phải được vắt sữa ngay trước ông ấy.
Tôi nói, "Ông đạt tới cái loại tiến bộ tôn giáo gì vậy, cái loại tâm thức gì vậy bởi tất cả những điều ngu xuẩn này? Năm con bò phải được đưa đi cùng ông. Thế rồi ông có hai người đứng đó khi chúng được vắt sữa. Dường như toàn thể tính tâm linh của ông phụ thuộc vào cái ngu xuẩn này."
Đây chỉ là một ví dụ. Hai mươi bốn giờ đây là cách thức của ông ấy. Không đàn bà nào được tới gần hơn ba mét. Các đệ tử của ông ấy liên tục đo khoảng cách với người đàn bà tới gặp vị thánh này. Nó phải đích xác ba mét. Tôi nói, "Cái điều vô nghĩa gì thế này?"
Ông ta nói, "Ông không hiểu. Đàn bà có từ lực nhưng bán kính của nó chỉ ba mét thôi." Tôi nói, "Ông lấy ý niệm này từ đâu vậy?"
Ông ta nói, "Từ thầy tôi. Thầy tôi đã nhận được điều này từ thầy của riêng ông ấy. Điều đó được trao trong chỗ bí mật được thì thào vào tai, từ thế hệ nọ sang thế hệ kia." Tôi nói, "Kì lạ, ông có thể hỗ trợ nó bằng kinh sách nào không?"
Ông ta nói, "Không, đấy là truyền thống riêng tư. Kinh sách là để cho công chúng. Thầy tôi không thể lừa tôi được."
Một cách tự nhiên thầy ông ấy không thể lừa ông ấy được. Và không ai biết ai là kẻ ngốc, người bắt đầu ý niệm này. Bất kì khi nào ông ấy đi tới bất kì chỗ nào, đầu tiên ông ấy sẽ hỏi ‘Có đàn bà nào không?'
Ông ấy không thể nào ngồi tại chỗ nơi một người đàn bà đã ngồi trước đó chưa hết chín phút. Cùng bán kính đó. Nó toả ra ba mét, trong không gian, nó kéo dài chín phút theo thời gian. Sau chín phút ông ấy mới có thể ngồi được, nhưng không trước lúc đó.
Tôi nói, "Ông đang sống một cuộc sống của người bị ám ảnh. Đây không phải là tính thánh thiện. Ông đang sống trong nỗi sợ thường xuyên. Toàn thể cuộc sống của ông, cả ngày lẫn đêm, không là gì ngoài nỗi sợ. Và ông đã trở nên quá tập trung vào những thứ bên ngoài vốn là vô nghĩa đến mức tôi không thấy ông còn thời gian nào cho cái bên trong."
Mọi tôn giáo đều đã trở nên tập trung vào cái bên ngoài. Tôi đang cố gắng bỏ mọi thứ là cái bên ngoài. Người của tôi không có kỉ luật bên ngoài. Họ không có ám ảnh bên ngoài.
Toàn thể nỗ lực và năng lượng của họ phải được hướng vào bên trong. Cuộc sống là nhỏ bé và thời gian quí giá thế. Bạn không thể phí hoài nó cho những thứ không cần thiết. Và bạn có thể  thấy mọi người xung quanh đang phí hoài nó vào những thứ không cần thiết.
Một shankaracharya ở lại Delhi và một người nghèo, một viên thư kí đứng lên trong giờ hỏi và hỏi về điều tối thượng, nó là gì, làm sao đạt tới nó.
Và shankaracharya nhìn vào anh ta. Anh ta dùng một cái bàn bình thường, quần dài, áo sơ mi rậm, và anh ta trở nên dữ tợn. Vị shankaracharya nói, "Anh cũng táo tợn mà dám hỏi về điều tối thượng. Và anh đang mặc quần dài. Trước hết trả lời ta đã. Anh có theo phái yoga pavid* không, sợi chỉ Hindu có ở bên trong áo rậm của anh không? Và khi anh đi đái thì anh đái đứng hay đái ngồi?"
Và tất cả những kẻ ngốc tụ tập ở đó và tôi cho rằng không ai khác đến đấy cả. Họ cười bò, người đàn ông đáng thương này nói, "Mặc quần dài thì rất khó ngồi và mọi chỗ đi tiểu đều có trong các văn phòng cho nên người ta có thể đái đứng được."
Ông ta nói, "Điều này là ngược lại với tôn giáo Hindu. Anh đã bao giờ nghe nói nhà tiên tri nào của Vedas đái đứng không? Thế còn sợi chỉ thì sao? Anh có đeo nó lên tai không?"
Anh ta nói, "Thực ra, tôi không có sợi chỉ nào."
Ông ta nói, "Điều này quá lắm. Anh sẽ xuống ngọn lửa địa ngục, bởi vì trong khi đi đái, nếu anh không đeo sợi chỉ lên tai, thế thì anh sẽ rất dễ bị ảnh hưởng của đủ mọi loại cái xấu. Đó là khoảnh khắc mà quỉ đi vào trong mọi người."
Điều này bắt nguồn từ một vị shankaracharya người được coi là người đứng đầu tôn giáo Hindu. Dường như mối quan tâm tôn giáo là về việc đi đái, sợi chỉ và việc bảo vệ mọi người khỏi điều xấu. Và người Hindu đã làm điều đó, nhưng tôi cho rằng họ không được bảo vệ khỏi điều xấu theo bất kì cách nào. Họ cũng là con người như mọi người ở bất kì đâu khác.
Tôi muốn mọi người của tôi hiểu điều đó một cách rõ ràng. Không quần áo, không kỉ luật bên ngoài cũng như không bất kì cái gì đã được truyền thống trao cho bạn và bạn đã chấp nhận nó chỉ từ niềm tin, là sẽ có ích. Điều duy nhất có thể tạo ra cách mạng trong bạn là vượt ra ngoài tâm trí đi vào thế giới của tâm thức. Ngoại trừ điều đó, không cái gì có tính tôn giáo cả. Nhưng để bắt đầu và với một thế giới bị ám ảnh quá nhiều bởi những thứ bên ngoài, tôi phải bắt đầu tính chất sannyas cũng bằng các thứ bên ngoài. Đổi quần áo bạn thành mầu cam, đeo Mala, thiền, nhưng nhấn mạnh chỉ vào thiền.
Nhưng tôi đã thấy rằng mọi người có thể thay đổi quần áo của họ rất dễ dàng nhưng họ không thể thay đổi tâm trí của họ được. Họ có thể đeo Mala, nhưng họ không thể nào đi vào trong tâm thức của họ được. Và bởi vì họ đang mặc quần áo da cam, đeo Mala, mang cái tên mới, họ bắt đầu tin rằng họ đã trở thành một sannyasin.
Tính chất sannyas không rẻ thế đâu. Do đó bây giờ là thời điểm và bạn đủ chín chắn cho pha bắt đầu kết thúc. Nếu bạn thích mầu da cam, mầu đỏ, hoàn toàn tốt - điều đó không thể gây hại gì, nhưng nó cũng không có ích. Nếu bạn thích Mala, nếu bạn thích trái tim mang hình tôi trên đó, nó đơn giản là đồ trang sức của bạn, nhưng nó không liên quan gì tới tôn giáo cả. Cho nên bây giờ tôi thu gọn tôn giáo về thực chất tuyệt đối của nó. Và đó là thiền. Nếu bạn thiền và nếu bạn đạt tới ngày càng cao trong tâm thức của bạn, ý nghĩ sẽ bị bỏ lại xa đằng sau. Bạn kinh nghiệm rằng thân thể bạn ở bên ngoài bạn, tâm trí bạn ở bên ngoài bạn và bạn đang đứng ở giữa, ở trung tâm cơn xoáy lốc, trong im lặng hoàn toàn, trong cái đẹp tuyệt đối, trong ánh sáng vĩ đại, trong sự mãn nguyện hoàn toàn. Ngoại trừ quá trình thiền, mọi thứ đều là không thực chất.
Tôi không muốn mọi người của tôi lại bị lạc vào điều không thực chất. Ban đầu điều đó là cần thiết. Bây giờ nhiều năm nghe tôi, hiểu tôi, bạn đang ở vị trí được tự do với mọi tù túng bên ngoài. Và lần đầu tiên bạn có thể thực sự là một sannyasin chỉ nếu bạn đi vào bên trong.

Osho ơi, đâu là chức năng và tầm quan trọng của mọi tổng hành dinh cho thầy ở châu Âu? Và nó sẽ truyền đạt hướng dẫn tâm linh của thầy như thế nào? Nó không ngụ ý tổ chức và cấu trúc sao?
Tổng hành dinh thế giới không liên quan gì tới tổ chức, cấu trúc cả. Thực ra, để tránh tổ chức và cấu trúc, tổng hành dinh thế giới được tạo ra. Tôi nhận được hàng nghìn bức thư, tôi không thể nào trả lời tất cả chúng được. Thậm chí tôi cũng không thể nào đọc được tất cả chúng. Và tôi sẽ là nhà huyền môn lang thang từ nay trở đi, bởi vì không nước nào có dũng cảm để tôi định cư ở đó, ngay cả đất nước riêng của tôi nơi tôi đã sinh ra cũng muốn tôi phải hoàn thành một số điều kiện nào đó.
Tôi chưa bao giờ hoàn thành các điều kiện do bất kì ai áp đặt lên tôi. Cho nên với tôi tiến trình duy nhất còn lại là lang thang khắp trái đất. Và theo một cách nào đó có lẽ đây là điều sự tồn tại muốn với tôi. Bởi vì theo cách này, tôi sẽ có khả năng đạt tới nhiều người hơn theo bất kì cách nào khác. Theo cách này tôi sẽ có sẵn cho hầu hết mọi sannyasin trên khắp thế giới hơn theo bất kì cách nào khác.
Tất cả họ không thể tới tôi được, họ có những khó khăn về tài chính, nhưng những điều đó là không quan trọng. Có các chính phủ trên khắp thế giới, mọi chính phủ, cho dù tôi xin visa du lịch ba tuần, đều hỏi tôi, "Ông có định tạo ra công xã ở đây không?"
Tôi nói, "Tôi bao giờ cũng có kính trọng lớn lao với con người, nhưng nghe câu hỏi của các ông, tôi cảm thấy rằng tôi đã lầm. Trong visa du lịch ba tuần, làm sao công xã có thể được tạo ra? Tôi sẽ gặp các sannyasins của mình và vài nước sợ đến mức trước khi tôi xin visa du lịch, nghị viện của họ đã quyết định rằng tôi không được phép vào nước này, bởi vì tôi là một người nguy hiểm. Về điều đó họ đúng. Nhưng ngay cả với một người nguy hiểm bạn cũng không thể ngăn cản visa  du lịch được, nếu như người đó chưa phạm tội chống lại hiến pháp của bạn, chống lại luật pháp của bạn. Tôi chưa bao giờ ở nước này, làm sao tôi có thể phạm tội gì chống lại luật pháp nước đó, trật tự của nước đó, hiến pháp của nước đó. Cho tôi một cơ hội đi đã. Tôi sẽ cố gắng hết sức, nhưng trước hết để tôi có cơ hội đã. Tôi thậm chí còn chưa từng nghe nói tới tên của các nước đó trước đây, nước đã quyết định rằng tôi sẽ không được vào nước họ. Tôi biết chỉ bởi vì họ đã quyết định, nghị viện họ đã quyết định rằng tôi phải không được phép vào. Và điều đó dường như là một mưu đồ thế giới, bởi vì cùng lập luận ấy được nêu ra trong mọi nghị viện rằng con người này là nguy hiểm rằng con người này cực kì thông minh rằng con người này có thể phá huỷ thanh niên của các bạn, nền đạo đức của họ. Người đó có thể làm biến chất mọi người bởi ý niệm của ông ta, phá huỷ truyền thống, tôn giáo, người đó có thể tạo ra mất trật tự.
Tôi đơn giản thấy buồn cười, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôn giáo và đạo đức và nhà thờ, mà đã từng có tuổi đến hai nghìn năm, ba nghìn năm, bốn nghìn năm, năm nghìn năm, có thể bị phá huỷ trong ba tuần sao? Họ đã cho tôi một manh mối. Bây giờ tôi biết quan điểm của họ. Nỗi sợ của họ đã phơi bày ra họ.
Nhưng điều đó không thành vấn đề. Nếu nước này dừng tôi lại, tôi vào nước khác lân cận và các sannyasins của tôi có thể tới gặp tôi ở đó.
Nhưng bây giờ cách làm việc của tôi sẽ là thay vì các sannyasins tới tôi, tôi sẽ tới họ và gõ cửa nhà họ. Có lẽ vài người hàng xóm khác sẽ thức dậy.
Tổng hành dinh thế giới không liên quan gì tới bất kì tổ chức nào. Nó đơn giản là ban thư kí của tôi. Đó là lí do tại sao tôi đã đặt cho nó cái tên ‘Rajneesh Foundation International - tổng hành dinh thế giới của Bhagwan Shree Rajneesh'.
Nó không liên quan gì tới bất kì ai khác. Nó là ban thư kí cá nhân của tôi nơi mọi thư từ trên thế giới có thể tới, từ đó mọi người có thể tìm ra tôi đang ở đâu, trong trại giam của nước nào. Bằng không hàng triệu sannyasins trên khắp thế giới sẽ gặp khó khăn, họ sẽ không thể nào dõi theo dấu vết của tôi được. Nước Mĩ đã đổi nhà giam cứ hai ngày một lần, đôi khi thậm chí một đêm tôi ở nhà giam này rồi ngày hôm sau tôi ở nhà giam khác. Tôi nói, "Nhà giam của các ông tất cả đều giống nhau. Sao các ông lại cứ phải gây ra những rắc rối không cần thiết này?"
Lí do là ở chỗ không ai được biết tôi đang ở đâu. Nhưng họ không thể xoay xở được, bởi vì từ sân bay, các phương tiện thông tin đại chúng đã có mặt. Mọi nhà giam đều bị bao quanh bởi các phương tiện thông tin hai mươi bốn giờ. Bất kì khi nào họ đem tôi ra, phương tiện thông tin đều có đó. Họ đem tôi vào, phương tiện thông tin có đó. Và phương tiện thông tin Mĩ là hiệu quả nhất trên thế giới. Trong vài giây cả nước sẽ biết tôi đang ở đâu.
Tổng hành dinh sẽ xuất bản sách của tôi, sẽ cho ra băng ghi âm, băng video, sẽ làm mọi loại công việc. Nhưng nó không chi phối bất kì ai. Mọi công xã trên thế giới đều độc lập. Mọi trung tâm trên thế giới đều tuyệt đối tự do. Họ không ở dưới sự hướng dẫn của ai cả. Các sannyasins của tôi có quan hệ trực tiếp với tôi. Tổng hành dinh thế giới sẽ chỉ vận hành sao cho bạn có thể có mối nối với tôi. Bằng không bạn không có chỗ nào để hỏi ai tôi đang ở đâu, điều gì đang xảy ra cho tôi. Tổng hành dinh thế giới theo bất kì cách nào cũng không phải là một quyền lực đối với bất kì sannyasin nào, bất kì trung tâm sannyas nào, bất kì đạo tràng, công xã nào. Nó không có liên quan gì tới điều đó. Nó là ban thư kí của tôi. Và chức năng của nó là để truyền đạt cho tôi các thông điệp quan trọng và truyền đạt cho các sannyasins thông điệp của tôi về bất kì cái gì quan trọng với bất kì ai. Nó không phải là một tổ chức. Nó không phải là một cấu trúc. Nó đơn giản là một văn phòng chức năng.

Osho ơi, làm sao chúng tôi trong thời đại Rajneesh có thể lan toả được viễn kiến của thầy nếu cá nhân chúng tôi thường bất an thế về viễn kiến của thầy thực tế là gì?
Tôi có thể hiểu được khó khăn này. Đấy không phải chỉ là khó khăn của bạn, đấy là khó khăn của mọi sannyasin ở mọi nơi. Khoảnh khắc ai đó hỏi bạn "Viễn kiến của thầy bạn là gì? Thầy muốn làm gì? Kỉ luật nào thầy đã trao cho bạn?" Và bạn gặp khó khăn. Bởi vì tôi không trao bất kì kỉ luật nào cho bạn. Và họ quen với các tôn giáo cũ, Ki tô giáo có sách giáo lí vấn đáp của riêng họ, chỉ là một cuốn sổ nhỏ mà trong đó tất cả những gì là bản chất của Ki tô giáo được viết ra.
Bạn có thể chỉ cần nhìn vào đó trong vài phút và bạn biết Ki tô giáo là gì. Người Do Thái có mười điều răn dạy, người Jaina có năm nguyên tắc của họ và theo cùng cách đó mọi tôn giáo, niềm tin của họ vào Thượng đế, niềm tin của họ vào cõi trời và địa ngục, niềm tin của họ vào cái gì là tốt và cái gì là xấu, sự chắc chắn của họ về cái gì là tội lỗi và cái gì là đức hạnh và tuyên bố rõ ràng của họ rằng những người đức hạnh sẽ được thưởng trên cõi trời còn những kẻ tội lỗi sẽ bị tống xuống bóng tối của địa ngục vĩnh viễn để chịu khổ.
Mọi sự là đơn giản cho những người này. Và một cách tự nhiên mọi người đều biết về tất cả những tôn giáo này. Họ hỏi bạn cùng một câu hỏi. Nhưng họ không biết rằng tôi không thuyết giảng tôn giáo.
Điều đầu tiên cần được làm rõ ràng cho họ là ở chỗ điều tôi đang thuyết giảng là về tính tôn giáo, phẩm chất. Tôn giáo là tín điều chết, các nguyên tắc cố định. Những thứ hoá thạch đông cứng. Điều tôi đang dạy cho bạn là tính tôn giáo sống động, tuôn chảy - một kinh nghiệm như tình yêu. Kinh nghiệm mang tính cá nhân, mọi tôn giáo mang tính tập thể. Họ thuộc về đám đông. Và toàn thể nỗ lực của tôi là để làm cho bạn thoát khỏi đám đông và thoát khỏi tập thể để cho bạn có thể là bản thân bạn, để cho bạn có thể nở hoa tới tiềm năng riêng của bạn, tới tính cá nhân của bạn. Tôi là một cá nhân.
Viễn kiến của tôi về con người là ở chỗ con người không cần tổ chức. Con người cần tự do với mọi tổ chức. Mọi tổ chức làm què quặt con người, làm đui mù con người, phá huỷ con người. Cuộc sống của các tổ chức là cái chết của cá nhân. Bởi vì các tổ chức đều đòi hỏi vâng lời. Vấn đề không phải là đúng hay sai. Vấn đề là bạn phải vâng lời bất kì cái gì đã được viết trong kinh sách, bất kì cái gì là cổ đại, bất kì cái gì đã có đều phải được tuân theo. Bạn không được đặt câu hỏi.
Tình trạng của tôi là đối lập lại. Bạn nên đặt câu hỏi về mọi thứ. Nó là cuộc sống của bạn. Và chừng nào mà bạn còn chưa đặt câu hỏi, bạn không thể nào gạt bỏ được những rác rưởi và phân bã. Mọi tôn giáo đều yêu cầu bạn phải tin. Viễn kiến của tôi là ở chỗ tội lỗi lớn nhất chống lại bản thân bạn là việc tin tưởng, bởi vì tin nghĩa là: bạn không biết vậy mà bạn bắt đầu cảm thấy dường như là bạn biết.
Tôi ủng hộ tất cả cho việc biết và tôi tuyệt đối chống lại niềm tin. Bởi vì niềm tin ngăn cản mọi người không cho biết. Khi bạn đã tin, việc truy tìm của bạn dừng lại. Không có nhu cầu. Phật Gautam đã biết, thế là đủ. Bạn có thể làm điều gì thêm nữa. Chỉ tin vào ngài, tôn thờ ngài. Nhưng nhớ một điều: khi bạn khát, thế thì bạn không bao giờ nghĩ rằng Phật Gautam đã uống đủ nước. Không có nhu cầu cho bạn uống.
Ngay cả việc nói rằng bạn khát cũng là tội lỗi. Khi bạn đói, bạn đói và bạn cần thức ăn. Phật Gautam có thể đã ăn - ông ấy đã sống tám mươi năm - điều đó không tạo ra khác biệt gì cho cơn đói của bạn cả. Nếu tại mức độ vật lí điều đó là không thể được, làm sao điều đó là có thể được tại mức độ tâm linh? Phật có thể đã biết, điều đó không thể làm cho bạn chứng ngộ được. Bạn sẽ phải biết bản thân mình.
Từng cá nhân đều phải đi trên con đường này. Không ai khác có thể đi thay bạn được. Các tôn giáo cũ đã làm nhiều điều thành rất đơn giản. Nhưng bằng việc làm cho chúng thành đơn giản, họ đã phá huỷ nhiều tới mức toàn thể nhân loại sống trong khổ vì điều đó. Cái là tốt hôm nay có thể không tốt ngày mai. Cái là tốt cho tôi, có thể không tốt cho bạn.
Từng cá nhân đều phải có ý thức, tỉnh táo, quan sát, thực nghiệm với cuộc sống. Và tìm ra cái gì tốt cho người đó. Bất kì cái gì cho bạn an bình, bất kì cái gì cho bạn phúc lạc, bất kì cái gì cho bạn thanh thản, bất kì cái gì đem bạn tới gần với sự tồn tại hơn và gần với sự hài hoà mênh mông của nó, đều là tốt. Tôi không thể chỉ ra cho bạn ‘cái này tốt’ và ‘cái này sai’.
Và bất kì cái gì tạo ra xung đột trong bạn, khổ trong bạn, đau đớn trong bạn, đều là sai. Không ai khác có thể quyết định được điều đó cho bạn, bởi vì mọi cá nhân đều có thế giới riêng của mình, sự nhạy cảm riêng của mình. Người đó là duy nhất. Cho nên các công thức sẽ không có tác dụng, chúng đã không có tác dụng. Toàn thể thế giới là bằng chứng cho điều đó.
Đừng bao giờ hỏi bất kì ai cái gì là đúng và cái gì là sai. Cuộc sống là một thực nghiệm để tìm ra cái gì là đúng, cái gì là sai. Đôi khi bạn có thể phạm phải điều sai, nhưng điều đó sẽ cho bạn kinh nghiệm về nó, điều đó sẽ làm cho bạn nhận biết về nó rằng cần phải tránh nó. Đôi khi bạn có thể làm điều gì đó tốt và bạn sẽ cảm thấy được ích lợi vô cùng. Phần thưởng không ở bên ngoài cuộc sống, trên cõi trời và địa ngục. Chúng là ở đây và bây giờ.
Từng hành động đều đem lại kết quả của nó ngay tức khắc. Tỉnh táo và quan sát đi. Tôi gọi người chín chắn là người đã quan sát và tự mình thấy cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là tốt, cái gì là xấu. Và bằng việc tự mình thấy điều đó, người đó có thẩm quyền vô cùng. Người đó biết điều đó một cách tuyệt đối. Toàn thế giới có thể nói điều gì đó khác, điều đó không tạo ra khác biệt gì với người đó. Toàn thế giới có thể chống lại người đó - vấn đề không phải là việc bỏ phiếu. Người đó có kinh nghiệm của mình và điều đó là quyết định. Một điều.
Điều thứ hai: người đã tìm thấy sự chín chắn theo thực nghiệm riêng của mình - và cuộc sống cho bạn biết bao nhiêu cơ hội, mọi khoảnh khắc chúng đều sẵn có. Đừng bỏ lỡ cơ hội nào. Tốt hay xấu, đừng quyết định trước. Trải qua kinh nghiệm này và để quyết định tới sau đó. Để cho kinh nghiệm là kết luận của bạn. Điều này sẽ giúp cho bạn biết một điều thêm nữa là ‘đừng can thiệp vào người khác’. Điều này sẽ cho bạn sự sáng suốt rằng ‘giúp cho người khác là bản thân họ'. Bảo họ thực nghiệm, bảo họ phạm sai lầm không phải là sai. Bởi vì mọi sai lầm đều là một phần của việc học.
Nhưng con người trong hàng nghìn năm đã từng được nuôi dưỡng - từ chính thời thơ ấu của mình, cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là tốt, cái gì là xấu. Cho nên một cách tự nhiên người đó hỏi các sannyasin của tôi nữa. Rằng, "Viễn kiến của thầy bạn là gì?"
Bảo họ rằng, "Thầy tôi không phải là cầm tù với tôi. Thầy là tự do với tôi. Thầy đã không cho tôi chi tiết về mọi thứ. Thầy đơn giản cho tôi phương pháp về cách tự tôi tìm chi tiết. Thầy không chỉ cho tôi cách thức. Thầy cho tôi đôi mắt để cho tôi có thể tìm ra con đường của mình."
Và con đường của từng cá nhân sẽ là khác nhau. Đừng bao giờ đi theo bất kì ai. Đó là thảm hoạ lớn nhất có thể xảy ra cho một người. Một khi bạn bắt đầu theo ai đó khác, bạn trở thành bản sao. Bạn trở thành việc bắt chước. Bạn mất tính độc đáo. Cho nên bất kì ai hỏi bạn, "Thầy bạn đã trao cho bạn viễn kiến gì?", bảo họ rằng thầy đã trao cho chúng tôi tự do. Và thầy đã gợi ra và thách thức chúng tôi tìm ra khuôn mặt nguyên thuỷ của mình. Và điều đó là có thể chỉ nếu bạn không bắt chước.

Osho ơi, khác biệt là gì giữa bí truyền và vô nghĩa bí truyền?
Bất kì điều gì tôi đã nói với các bạn, đều là bí truyền. Tôi đang cố làm bạn thành các nhà huyền môn, thành thầy của riêng bạn, tôi đang giúp cho bạn tìm ra bí ẩn của cuộc sống mà không cho bạn bản đồ nào, không cho bạn sách hướng dẫn nào. Bởi vì điều đó làm hỏng toàn thể trò chơi này.
Nó cũng giống như bạn xem một phim hay. Và bạn bắt đầu kể lại câu chuyện phim cho người bạn. Và bạn yêu mến người bạn này. Và bạn đã mang vé tới cho người bạn đó đi xem ngày mai.
Đó là một cử chỉ tốt. Nhưng xin đừng kể lại câu chuyện phim. Bằng không người bạn đó sẽ đơn giản chán phim - cũng phim hay thế sẽ trở thành một kinh nghiệm chán ngán. Bởi vì người đó sẽ biết cái gì sắp xảy ra. Sẽ không còn tò mò nữa, sẽ không có khả năng cho cái gì mới xảy ra.
Người đó đã biết. Tôi nghe nói khi lần đầu tiên phim được chiếu ở Ấn Độ trong một làng nhỏ, đã có ba buổi chiếu: chiếu phim buổi chiều. Và một ông già xem phim. Thế rồi buổi chiếu kết thúc nhưng ông ấy không đi. Ông ấy nói, "Tôi muốn có vé buổi chiếu thứ nhất." Người quản lí nói, "Nhưng ông vừa xem rồi." Ông ấy nói, "Đợi đấy, ông đừng can thiệp vào. Đây không phải là việc của ông. Đây là tiền bạc. Đưa cho tôi vé. Tôi sẽ xem buổi chiếu thứ nhất nữa." Sau buổi chiếu thứ nhất ông ấy nói, "Bây giờ tôi muốn xem buổi chiếu thứ hai nữa."
Người quản lí nói, "Ông dường như là một người kì cục. Ông cứ xem đi xem lại cùng một phim. Mà ông dường như không chán."
Ông ấy nói, "Ông sẽ không được thoả mãn chừng nào tôi còn chưa trả lời cho ông. Có một cảnh trong phim. Một người đàn bà đẹp bên cạnh hồ đang cởi quần áo. Cô ấy gần như đã cởi hết quần áo thì vào đúng lúc đó một chiếc tàu hoả đi qua.” Ông bạn già này cố gắng đủ mọi cách để nhìn sang phía bên kia, nhưng người đàn bà này lại ở phía bên kia và vào lúc tàu hoả đã chạy qua, người đàn bà đang bơi trong hồ rồi và ông ấy không thể nào thấy được cô ấy cởi hết quần áo. Ông ấy nói, "Tôi sẽ không rời khỏi chỗ này, bởi vì tôi biết những tầu hoả Ấn Độ này thỉnh thoảng đi trễ. Bao lâu thì tầu hoả này mới đi đúng giờ?"
Bạn đừng kể lại câu chuyện. Vé là tốt. Tôi cho bạn mọi khuyến khích, mọi thách thức để tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng tôi không bảo bạn cái gì bạn sắp gặp, cái gì sắp xảy ra trên cuộc hành trình. Điều đó sẽ làm hỏng toàn thể bí ẩn của nó. Bí truyền là khoa học về thách thức mọi người rằng cuộc sống không có vẻ như vậy. Nó còn nhiều hơn thế. Nó bao giờ cũng nhiều hơn thế. Bạn sẽ không bao giờ đi tới chỗ bạn có thể nói, "Bây giờ thế là đủ rồi." Nó chưa bao giờ đủ cả. Điều tôi gọi là vô nghĩa bí truyền là những người bắt đầu cho bạn các sơ đồ, bản đồ, hướng dẫn - bắt đầu kể chi tiết cho bạn về mọi pha của cuộc hành trình của bạn. Họ giết chết, ngay cả ham muốn đi trên con đường này.
Tôi đã ở Agra. Có một tôn giáo nhỏ tên là Radhaswamis. Bạn có thể thấy ở Radhaswamis cách thức các tôn giáo đã từng đánh nhau một cách đầy bản ngã. Trong hai trăm năm, Radhaswamis đã làm đền đài để ghi nhớ guru của họ, nhưng ý niệm làm đền đài là để đánh bại Taj Mahal, bởi vì cả hai đều ở Agra. Hai trăm năm liên tục, chỉ nền đất là sẵn sàng. Chỉ các cột trụ. Họ đã làm công việc cực kì lớn, và nếu họ thành công, có khả năng rất mong manh để hoàn thành nó; bởi vì hai trăm năm họ đã làm việc. Họ đã đổ tất cả tiền bạc của mình, từ khắp nước, bất kì chỗ nào có tín đồ của họ. Nhưng bất kì điều gì họ đã làm đều cho chỉ dẫn rằng nếu họ thành công, Taj Mahal sẽ trở thành hạng hai.
Khi tôi ở Agra, họ đã mời tôi tới xem ngôi đền chưa hoàn thành của họ. Họ đang rất thất vọng bởi vì tiền hết mà không còn nguồn nào nữa. Thậm chí không có đến một cái mái nhà. Nhưng ngày cả trên các cột trụ, công việc mà họ đã làm - có lẽ trên đá cẩm thạch chưa bao giờ tìm ra được những nghệ nhân vĩ đại như vậy. Khi tôi nhìn vào ngôi đền của họ, tôi bắt gặp một tấm bản đồ đang treo trên tường. Tôi nói, "Cái kia là cái gì vậy? Tôi chưa bao giờ thấy tấm bản đồ như vậy." Họ nói, "Đây là bản đồ các tầng cao hơn của tâm thức." Có mười sáu tầng, và trên bản đồ này, ở tầng thứ năm - Mohammed, Moses, những người như vậy, các tên của họ được viết ra có cao hơn theo cách nào đó. Tại tầng thứ bẩy là Nanak, Kabir, Dadu và những người khác. Bằng cách nào đó vẫn còn cao hơn, trên tầng thứ mười, là Krishna, Ram. Vẫn còn cao hơn tầng mười một là Phật Gautam, Mahavira. Trên tầng thứ mười sáu, chỉ có guru của họ, thầy của họ, đã đạt tới. Họ nói, "Ông nói sao?” Tôi nói, "Tuyệt đối đúng. Thầy của các ông ở tầng thứ mười sáu." Họ nói, "Ông là người đầu tiên không thuộc vào tôn giáo chúng tôi, người tuyệt đối chắc chắn vậy.” Tôi nói, "Tôi phải tuyệt đối chắc chắn bởi vì tôi ở tầng thứ mười bẩy, và tôi thấy ông guru đáng thương của các ông ở tầng thứ mười sáu. Ông ta đang cố gắng leo lên tầng tầng thứ mười bẩy còn tôi thì cứ đạp ông ta xuống. Tầng thứ mười bẩy là tầng cuối cùng, và tôi không định cho phép bất kì ai khác ở đó. Tôi không thích người nào cả. Tôi muốn sống một mình, một cách an bình, thầy của các ông phải còn ở tầng thứ mười sáu. Ông ta có thể đi xuống, tầng thứ mười lăm, mười bốn - chỗ còn trống, không có ai."
Họ bị sốc. Họ nói, "Ông có nghiêm chỉnh  không đấy?” Tôi nói, "Tôi bao giờ cũng nghiêm chỉnh, và tôi phải nghiêm chỉnh chứ bởi vì guru của các ông đang cố gắng mọi kiểu có thể để bằng cách nào đó vào tầng thứ mười bẩy. Và tôi phải làm mọi thu xếp để chắn đường của ông ta. Thực ra tôi đã vứt cả thang đi rồi. Không còn hi vọng nào cho guru của các ông vào tầng thứ mười bẩy.” Họ nói, "Điều này kì lạ thật. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ nghe nói tới tầng thứ mười bẩy cả.” Tôi nói, "Ai đã nghe nói về tầng thứ mười sáu?"
Đây là vô nghĩa bí truyền. Bí truyền là hiện tượng huyền môn. Vô nghĩa bí truyền được diễn đạt theo những điều như vậy. Bạn sẽ không tin rằng trong các đền thờ Jaina thường có bản đồ. Tôi không biết liệu bây giờ còn hay không, bởi vì tôi đã không bước vào đền thờ Jaina đã hai mươi năm nay. Nói tôi không bước vào cũng không đúng - họ không cho tôi vào!
Krishna đang ở địa ngục thứ bẩy... bởi vì người Jaina tin vào bẩy địa ngục. Đấy là một ý niệm rất toán học - đẩy tất cả tội nhân vào một địa ngục, điều này dường như rất không toán học. Ai đó chỉ mới hút thuốc lá và không làm điều gì sai với bất kì ai, ngoại trừ bản thân người đó. Và ai đó đã giết người, như Adolf Hitler, sáu triệu người. Bây giờ đẩy họ vào cùng một chỗ, dường như tuyệt đối không công bằng. Cho nên người Jaina có bẩy địa ngục - bẩy phân loại, tương ứng với tội lỗi, tội ác của bạn, bạn sẽ bị đẩy xuống. Krishna ở tầng thứ bẩy, tầng cuối cùng, bởi vì ông ấy là người đã khêu gợi Arjuna về Mahabharata, cuộc chiến tranh Ấn Độ lớn, trong đó hàng triệu người chết. Toàn thể trách nhiệm thuộc về ông ấy - và bởi vì với người Jaina bất bạo lực là tiêu chuẩn của tôn giáo - nên ông ấy là người quan trọng nhất để thuyết giảng bạo lực.
Khi Mahavira còn sống, một trong các đệ tử của ông ấy đã hi vọng rằng anh ta sẽ trở thành người kế tục của Mahavira. Nhưng thấy Mahavira cứ sống mãi, anh ta trở nên thất vọng. Anh ta đã làm chỗ dựa cho Mahavira rồi tách rời khỏi Mahavira đem đi năm trăm đệ tử của mình, bởi vì anh ta nói con người này không biết đủ. Ông ấy nói chỉ có bẩy địa ngục - điều đó là sai. Có bẩy mươi bẩy địa ngục. Bởi vì không thể nào phân loại mọi tội ác và tội lỗi vào bẩy loại được - phải là bẩy mươi bẩy địa ngục. Bây giờ bạn không thể chứng minh được cho những người này, không thể bác bỏ được những người này. Đấy chỉ là tưởng tượng của họ.
Nghe thấy điều này, một người khác, tôi thích người đó - Sanjay Belattiputta - người đó nói, "Người này là kẻ ngốc! Điều này là tốt hơn bẩy, nhưng thực sự có bẩy trăm địa ngục." Ông ta đùa, ông ta không nghiêm chỉnh, nhưng ông ta đơn giản nói, rằng tất cả những điều này chỉ là vô nghĩa. Nhân danh tôn giáo bạn có thể cứ lan truyền bất kì loại vô nghĩa nào.
Tôi đã nghe nói rằng - cuối cùng Morarji Desai chết. Tôi không biết liệu ông ấy có chết hay không. Đấy chỉ là nghe nói thôi. Và mọi người chết thì đầu tiên được đem vào địa ngục, và địa ngục có một phòng đón tiếp đẹp thế - các cô trần truồng tuyệt đẹp, rượu tuôn như suối, đủ mọi loại đồ uống, đủ mọi loại thức ăn... bạn nói và ngay lập tức mọi thứ được một đàn bà trần truồng đưa trình. Morarji nói, "Điều này thật lạ... đây mà là địa ngục sao? Còn lạc thú lớn nào nữa phải không xảy ra trên cõi trời? Nhưng đây là gốc rễ. Địa ngục tới trước, thế rồi xe buýt đi tới cõi trời. Và ông ta rất lấy làm phân vân. Cõi trời trông như đống điêu tàn - những bộ xương cổ bước đi; bạn thậm chí không thể nào nhận ra được ai là ai, thánh nhân, mahatmas, hiền giả, nhưng không có mầu xanh tươi, không có chỗ đón tiếp. Ông ta nói, "Đây không phải là chỗ đáng sống.” Địa ngục còn tốt hơn nhiều. Được cải thiện hàng ngày, mọi thứ đều có sẵn. Không có dấu hiệu của nghèo nàn. Ông ta nói với người lái xe buýt rằng, "Xin ông cho quay lại, tôi muốn trở về địa ngục.” Ông này nói, "Nghĩ hai lần trước khi ông quyết định đi." Ông ta nói, "Tôi đã quyết định rồi." Ông ta xuống địa ngục và ông ta bước vào, quỉ bắt giữ ông ta và nói, "Vậy là ông đã tới." Nhưng ông ta nói, "Chỗ đón tiếp đâu rồi?" Quỉ nói, "Ông là kẻ ngốc. Đấy chỉ là chỗ đón tiếp thôi. Đấy chỉ để quyến rũ lũ ngốc xuống địa ngục. Bây giờ ông sẽ thấy thực tại."
Xe buýt đã đi mất. Không còn cách nào nữa. Quỉ nói, "Dẫu sao, bởi vì ông tự mình tới đây - ông đã tự mình chọn nó, nên tôi sẽ lại cho ông chọn lựa.” Quỉ đưa ông ấy vào phòng thứ nhất. Khủng khiếp làm sao. Mọi người bị cắt ra bằng cưa điện và rồi lại được gắn lại để bị cưa tiếp. Đau đớn thế. Mọi người đều trần trụi, và người ta có thể thấy rằng một người đã phải trải qua bao nhiêu lần bị cắt. Bạn có thể đếm được các vết sẹo. Và họ đã thực sự phát minh ra chất keo để bạn cắt thân thể ra làm đôi, dán nó lại, gắn lại, và đôi khi những con quỉ nhỏ đó đang tất cả những việc này, chúng sẽ gắn thân của hai người và đổi đầu người nọ sang thân người kia. Trông rất xấu. Mọi người đều bị hành hạ. Con quỉ hỏi, Ông có muốn gia nhập nhóm này không? Đây là nhóm trị liệu đấy." Morarji nói, "Không. Tôi muốn xem hai nhóm kia."
Trong nhóm thứ hai, mọi sự thậm chí còn  khủng khiếp hơn. Không có cưa điện - mọi người bị chặt ra bằng kiểu rìu cũ, như chặt cây vậy. Chân ai đó sẽ bị chặt ra và được nối với chân của ai đó khác. Đầu ai đó sẽ bị chặt ra và sẽ được gắn với đầu của ai đó khác. Morarji nói, "Cái gì thế này?" Quỉ nói, "Đây là kiểu cổ. Có những người thích đồ cổ, cổ đại, truyền thống. Vài người thích công nghệ, khoa học. Với họ thì là phòng thứ nhất. Phòng này là cho những người tôn giáo hơn, truyền thống hơn, những người cứ quay tròn. Có lẽ điều này thích hợp cho ông.” Ông ta nói, "Không, thế này thì quá nhiều. Tôi muốn xem phòng thứ ba.” Và phòng thứ ba trông như sự giảm nhẹ. Giảm nhẹ lớn! Thấy hai phòng kia, phòng thứ ba chắc chắn là sự giảm nhẹ. Mọi người đều đứng trong cứt đủ loại - ngập tới cổ. Ai đó uống trà, ai đó uống cà phê. Bốc mùi thối, nhưng Morarji nói, "Chỗ này tốt hơn." Còn khi có liên quan tới cứt, ông ấy đã chuẩn bị năm mươi phần trăm rồi. Cả đời uống nước đái, bây giờ ông ấy không ngửi thấy cái gì. Nhưng cũng tốt là bạn được cung cấp cho cà phê và trà. Cho nên ông ấy nói, "Chỗ này là tốt. Mặc dầu trông không hay lắm khi đứng trong đống lộn xộn này mà các ông đã tụ tập lại đây. Đống này có từ bao lâu rồi?" Quỉ nói, "Đây là điều cổ đại nhất. Chúng tôi là những nhà sưu tập vĩ đại. Chúng tôi rất quan tâm tới đồ cổ. Không có gì mới ở đây cả. Những đồ cổ hàng nghìn năm. Cứt mà ông thấy ở khắp mọi nơi. Điều này bắt nguồn từ thời Vedas. Nó là thiêng liêng. Vào trong nó và tận hưởng đi. Ông muốn gì, cà phê nhé?" Ông ta nói, "Tôi không thích cà phê hay trà. Tôi uống nước đái của riêng tôi." Quỉ nói, "Điều đó hoàn toàn được. Tự do đó được trao cho ông. Ông có thể uống bao nhiêu tuỳ thích."
Một chiếc cốc rỗng được trao cho ông ấy để uống nước đái của riêng mình. Ngay giữa chừng ông ấy uống nước đái của mình, một tiếng chuông bắt đầu vang lên và một con quỉ nhỏ la lên rằng giờ nghỉ uống cà phê đã hết. Bây giờ vứt tất cả cốc chén và cà phê của các ông đi và trồng cây chuối. Bây giờ bắt đầu bài tập yoga.
Điều này ông ấy không biết rằng nó sẽ vậy. Đã quá nhiều rồi, và bây giờ lại trồng cây chuối. Nhưng bạn không thể chỉ làm mỗi điều này. Ba chỗ có đó và bạn phải tự mình chọn.
Mọi tôn giáo đều có các ý niệm về cõi trời, về địa ngục. Đây tất cả đều là vô nghĩa bí truyền. Bí truyền thực đơn giản nghĩa là khoa học về việc biết tới mình.
Được chứ?

Ban kinh cuoi cung - Chuong 11

Đàn bà trên khắp thế giới thấy thầy cực kì hấp dẫn; theo phê phán của thầy, một cách định mệnh vậy. Thầy mô tả thế nào về hấp dẫn giới tính riêng của thầy?
Toàn thể lịch sử của con người là lịch sử của sự kết án đàn bà bởi mọi xã hội, bởi mọi nền văn hoá, bởi mọi tôn giáo. Thậm chí trong số những người vĩ đại nhất đã từng bước đi trên trái đất này cũng không có lấy một người kính trọng phụ nữ. Moses, Jesus, Mohammed, Mahavira, ngay cả Phật, đã lên án đàn bà theo cách này cách khác. Tôi là người đàn ông đầu tiên đã cho đàn bà cùng kính trọng như đàn ông. Điều đó không liên quan gì tới hấp dẫn giới tính cả.
Trong các giáo đường Do Thái, đàn bà không thể ngồi cùng đàn ông, có một bức màn mà họ phải ngồi đằng sau. Họ không được coi là bình đẳng ngay cả về mặt tâm linh. Khi Indira Gandhi đến thăm Israel, một phụ nữ khác đã là thủ tướng của Israel. Indira muốn thăm một giáo đường.
Nữ thủ tướng Do Thái này lo nghĩ bởi vì sự phân tách là điều sỉ nhục thế. Bà ấy đã làm thu xếp đặc biệt là cả hai thủ tướng sẽ ngồi trên bao lơn để cho không đàn ông nào có thể trông thấy được họ, và Indira sẽ không trở nên nhận biết rằng đàn bà bị đối xử theo cách bẽ mặt thế. Indira đã không biết về truyền thống này. Bà ấy nói với thủ tướng Israel, "Đây quả là điều gì đó lớn lao. Các thủ tướng nước bà có chỗ đặc biệt trên bao lơn trong mọi giáo đường không? Ngay cả một thủ tướng khách mời?" Và người ta nói rằng thủ tướng Do Thái đơn giản mỉm cười không trả lời bởi vì thực tại hoàn toàn khác - đấy không phải là tình huống kính trọng, đấy là tình huống sỉ nhục. Để tránh điều đó, bà ta đã tạo ra cái mẽ ngoài này.
Các tín đồ tốt nhất của Jesus đều là đàn bà, nhưng không người nào được ông ấy và nhà thờ của ông ấy chấp nhận làm tông đồ của ông ấy. Mười hai tông đồ tất cả đều là đàn ông, và khi ông ấy bị đóng đinh, tất cả mười hai tông đồ này đều trốn sạch. Họ đã chứng tỏ đơn giản là những kẻ hèn nhát, sợ rằng nếu họ bị bắt, cùng định mệnh đó sẽ là của họ. Nhưng ba người đàn bà... Mary Magdalene đã có thời là gái mãi dâm, nhưng khi cô ấy thấy Jesus cô ấy đã yêu ông ấy và giáo huấn của ông ấy và chấm dứt việc làm gái mãi dâm. Cô ấy ở đó gần cây chữ thập. Gái mãi dâm đó đã làm bẽ mặt tất cả mười hai tông đồ kia.
Mẹ của Jesus, Mary, cũng đứng gần cây chữ thập. Jesus chưa bao giờ thậm chí kính trọng mẹ mình bởi vì bà ấy là đàn bà. Có lần ông ấy đã nói với đám đông và ai đó từ bên ngoài kêu lên, "Jesus, mẹ ông đang đứng đây. Bà ấy muốn gặp ông, bà ấy đã không gặp ông ba năm nay rồi."
Và cách thức Jesus đáp lại xấu thế, không thể hình dung nổi, đến mức điều đó làm suy giảm toàn thể giáo huấn của ông ấy. Ông ấy nói, "Bảo người đàn bà đó..." Ông ấy thậm chí không thể dùng tới từ mẹ "Bảo người đàn bà đó rằng ta không phải là con bà ấy. Cha ta ở trên trời, và ta là đứa con duy nhất của ngài."
Điều này hoàn toàn vượt ra ngoài hoàn cảnh này - rằng người đàn bà đáng thương đó đơn giản muốn gặp ông ấy. Không cần phải nói điều này. Nói, "Bảo người đàn bà đó..." chỉ ra thái độ của ông ấy đối với đàn bà.
Mohammed không có kính trọng với bất kì đàn bà nào. Ông ấy cho phép mỗi người Mô ha mét giáo được cưới nhiều đàn bà hơn bất kì tôn giáo nào khác đã cho phép, ít nhất bốn đàn bà. Bản thân ông ấy đã lấy chín đàn bà. Tín đồ của ông ấy đã đối xử với đàn bà như súc vật. Nizam tại vùng Hyderabad có năm trăm vợ, ngay cả trong thế kỉ này.
Parasuram, hoá thân Hindu của Thượng đế, được lệnh của bố mình giết chết mẹ mình và đem đầu mẹ về để chứng minh rằng mình đã giết mẹ, bởi vì người bố nghi ngờ rằng vợ mình yêu người đàn ông khác. Và Parasuram đã không ngần ngại.
Một người không bao giờ có thể chắc chắn ai là bố mình. Người bố cũng không thể chắc chắn được rằng con mình có thực là con mình không, chỉ người mẹ biết. Nhưng ông ta đã theo lệnh của bố mình, người bố đã nghi ngờ rằng vợ mình yêu ai đó khác. Có khả năng Parasuram không phải là con của người này. Nhưng chặt đầu người đàn bà không phải là vấn đề. Dầu vậy, Parasuram vẫn cứ là một trong những hoá thân của Hindus.
Krishna đã vượt qua mọi người Nizams và mọi người Mô ha mét giáo. Ông ấy đã có một vợ mà ông ấy cưới, và mười sáu nghìn vợ đánh cắp của người khác. Bất kì khi nào ông ấy thấy bất kì đàn bà đẹp nào, thế là đủ, cô ấy sẽ bị bắt về lâu đài của ông ấy. Không đàn ông nào đã làm những tội như vậy như Krishna, nhưng ông ấy đã được tôn thờ.
Mahavira, nhà tiên tri quan trọng nhất của Jaina giáo, dạy rằng đàn bà không thể được giải thoát khỏi thân thể và thế giới. Trước hết, cô ấy phải được sinh ra làm người đàn ông và chỉ thế thì cô ấy mới có thể đạt tới được moksha, nhưng không trực tiếp từ thân thể của đàn bà. Và những người này đã từng nhất quán, khăng khăng nói rằng linh hồn không nam không nữ, rằng thân thể còn lại sau, chỉ linh linh hồn chuyển đi, cho nên tại sao phân biệt phải được tạo ra - rằng linh hồn của đàn ông có thể đạt tới đỉnh cao nhất của tâm thức nhưng linh hồn đàn bà không thể đạt được?
Phật Gautam đã không cho phép bất kì đàn bà nào được điểm đạo thành sannyas của ông ấy trong hai mươi năm. Hàng nghìn đàn bà kêu khóc, nhưng người này, người được coi là con người từ bi nhất trên thế giới, cứ từ chối họ. Ông ấy đã không chấp nhận đàn bà làm đệ tử trong hai mươi năm.
Cũng chỉ bởi trùng hợp ngẫu nhiên mà cuối cùng ông ấy đã phải chấp nhận đàn bà. Ngày ông ấy ra đời mẹ ông ấy chết. Người em của mẹ ông ấy đã không lấy chồng, chỉ để cho bà ấy có thể chăm sóc cho đứa nhỏ này. Không người mẹ nào đã yêu bất kì đứa trẻ nào như cách người đàn bà này đã yêu, như cách người đàn bà này đã hi sinh.
Trong tuổi già của mình bà ấy tới và yêu cầu được điểm đạo. Có im lặng mênh mông trong mười nghìn sannyasins của Phật Gautam và bản thân ông ấy cũng trong khó xử. Người đàn bà này đã hi sinh cả đời mình cho ông ấy và nói 'không' có cảm giác không phải với ông ấy. Một cách miễn cưỡng ông ấy đã điểm đạo cho bà ấy, nhưng kết án sâu sắc đến mức trong bài nói điểm đạo của mình ông ấy đã nói, "Tôn giáo của ta dự định kéo dài năm nghìn năm, nhưng bởi vì ta đã điểm đạo cho đàn bà vào công xã các sannyasins của ta, tôn giáo của ta sẽ chỉ kéo dài năm trăm năm."
Bạn có thấy vấn đề không? Ông ấy đang đổ trách nhiệm lên bà già đáng thương này về việc phá huỷ tôn giáo của ông ấy. Từ năm nghìn năm xuống năm trăm nghĩa là bốn nghìn năm trăm năm bị hi sinh đi bởi vì một người đàn bà đã được điểm đạo. Bạn có thể kết án ai đó nhiều hơn thế không?
Đàn bà được hấp dẫn tới tôi. Đấy không phải là hấp dẫn giới tính; đấy là hấp dẫn tâm linh, bởi vì tôi là người đàn ông đầu tiên đã không tạo ra sự phân biệt nào giữa đàn ông và đàn bà khi có liên quan tới sự phát triển tâm linh.
Đàn bà đang tranh đấu trên khắp thế giới, đặc biệt ở các nước tiên tiến, vì việc giải phóng bình thường khỏi đàn ông. Tôi đã cho họ giải thoát tối thượng, bình đẳng về tâm thức. Và nếu họ yêu tôi, điều đó không liên quan gì tới dục cả. Nó có cái gì đó liên quan tới siêu tâm thức.


Tôi đã nghe nói từ các nguồn đáng tin cậy rằng trong năm 1969, khi Indira Gandhi cuối cùng có hai ý kiến về Morarji Desai, thầy đã khuyên bà ấy nên sa thải ông ấy khỏi nội các và cuối cùng bà ấy đã làm như vậy. Đây có phải là lí do đằng sau thái độ đối kháng của ông ấy với thầy không?
Điều đó là đúng. Bà ấy đã thảo luận với tôi liệu có nên loại bỏ Morarji Desai khỏi nội các hay không, và tôi đã nói với bà ấy, "Vấn đề không phải là Morarji Desai. Nếu bất kì ai chống lại quốc gia đang tiến triển, nếu người đó là hòn đá ngáng đường trong sự tiến triển của đất nước, thế thì dù người đó là ai, người đó nên bị loại bỏ ngay lập tức - không nên có hai ý kiến về điều đó."
Đối kháng của Morarji Desai với tôi không chỉ phụ thuộc vào sự kiện này - nó đã bắt đầu từ mười năm trước đây. Hai mươi người trên khắp đất nước đã được Acharya Tulsi mời tới dự một cuộc tụ tập; họ tổ chức một lễ hội lớn. Cuộc tụ tập thật lớn, gần một trăm nghìn người.
Tôi là một trong số hai mươi người đó và Morarji Desai cũng vậy. Morarji Desai lúc đó là bộ trưởng bộ tài chính. Một sự việc xảy ra làm bắt đầu sự đối kháng của ông ta, thế rồi nhiều điều khác được thêm vào nó. Từ phía tôi không có đối kháng nào với ông ấy.
Sự cố là hai mươi vị khách mới này đều ngồi trên sàn còn Acharya Tulsi, người chủ, ngồi ở bục cao hơn; không ai bận tâm về điều đó cả. Morarji, cũng giống hệt nhà lãnh đạo chính trị, tới sau cùng.
Hai mươi người đã tụ tập để trước nhất thảo luận về các vấn đề con người trước khi họ phát biểu cho một trăm nghìn người đang đợi bên ngoài. Nhưng Morarji đã nói khi ông ta bước vào, "Trước khi bất kì câu hỏi nào khác được nêu ra tôi phải hỏi hai câu hỏi. Thứ nhất, khi tôi vào tôi đã chắp tay theo cách Ấn Độ chúng ta vẫn chào nhau, nhưng Acharya Tulsi đã không đáp lại bằng việc chắp tay. Thay vì thế, ông ấy giơ một tay lên ra dấu ban phúc lành."
Điều đó là rất xấc xược với ông ấy, mặc dầu Acharya Tulsi đơn giản tuân theo truyền thống Jaina - rằng duy nhất một sư có thể ban phúc cho bạn bởi vì ông ấy cao hơn bạn. Ông ấy đã từ bỏ thế giới, bạn còn chưa từ bỏ thế giới. Bạn có thể cúi mình chắp tay, bạn có thể chạm chân ông ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là ông ấy sẽ đáp ứng theo cùng cách. Truyền thống này là xấu, bởi vì với tôi, người cao hơn nên khiêm tốn hơn.
Và ông ấy nói, "Câu hỏi thứ hai là: tại sao khách ngồi trên sàn còn ông, người chủ, ngồi trên bục  cao  hơn? Trước hết, ông trả lời hai câu hỏi này và thế rồi chúng ta có thể thảo luận các điều khác."
Bản thân Acharya Tulsi không phải là người tôn giáo. Ông ấy mặc quần áo tôn giáo nhưng ông ấy có một tâm trí rất chính trị. Ông ấy dính chặt vào cái gì phải làm, cách trả lời; ông ấy không muốn gây phiền nhiễu  Morarji Desai. Có im lặng trong vài giây, thế rồi tôi nói - Morarji Desai đang ngồi cạnh tôi - tôi nói, "Câu hỏi này đã không được hỏi cho tôi cho nên tôi phải xin phép cả hai bên. Acharya Tulsi đã được hỏi nhưng ông ấy dường như không có câu trả lời. Nếu ông ấy cho phép tôi trả lời tôi có thể trả lời, nhưng tôi muốn Morarji Desai cho phép tôi, bởi vì ông ấy đã không hỏi tôi." Ông ta nói, "Câu trả lời tới từ đâu không thành vấn đề. Tôi muốn có câu trả lời."
Tôi nói, "Bây giờ mọi thứ có thể được làm rõ ra. Một điều: có hai mươi khách, mười chín khách đã trải qua cùng quá trình, và không ai nêu ra câu hỏi này. Ông dường như là một người rất bản ngã, do đó câu hỏi này đã nảy sinh trong tâm trí ông. Nếu không thì có hề chi? Ông ấy đang ngồi trên bục cao, ông ấy có thể treo mình trên trần nhà, vậy mà ông ấy sẽ không ở vị trí cao nhất. Còn có nhện đi trên trần, các ông đều có thể thấy chúng. Nếu ở cao hơn là vĩ đại hơn, thế thì các con nhện kia là kẻ vĩ đại nhất ở đây.
"Thứ hai, khi ông đón chào ai đó bằng việc chắp tay ông đang biểu lộ trái tim ông. Điều đó không thể là có điều kiện được, điều đó không thể là điều người khác phải đáp ứng theo cùng cách đó. Bằng không, trước hết ông phải ra điều kiện là, ‘Tôi sẽ chắp tay và cúi mình trước ông nếu ông cũng sẵn sàng làm điều đó với tôi.' Đấy là lỗi của ông - ông đã không đưa ra điều kiện.
"Còn khi có liên quan tới Acharya Tulsi ông ấy đã tự chứng tỏ bản thân ông ấy đơn giản là ngu. Không cần phải trả lời những câu hỏi này, ông ấy có thể chỉ cần bước xuống khỏi bục của mình và ngồi cùng với chúng ta trên sàn. Không cần dùng tới một lời, hành động của ông ấy đã là câu trả lời. Nhưng ông ấy vẫn ngồi đó gần như chết rồi. Ông ấy không thể di chuyển được, ông ấy không thể bước xuống khỏi bục, ông ấy không thể chắp tay để đón chào bạn. Hai kẻ bản ngã này đang đương đầu với nhau và phá huỷ toàn thể cuộc hội nghị. Cả hai ông có thể giữ yên tĩnh, mười tám người còn lại có thể tiếp tục cuộc thảo luận."
Đó là sự bắt đầu của sự đối kháng của Morarji Desai và Acharya Tulsi. Nói ra chân lí trong thế giới này là tạo ra kẻ thù. Nhưng từ phía tôi, tôi không cảm thấy bất kì đối kháng nào, tôi đơn giản cảm thấy buồn cho những người này, họ là những người chậm hiểu - họ không có thông minh nào để hiểu những điều đơn giản.
Thủ lĩnh phong trào tâm thức Krishna quốc tế gần đây có nói, khi chỉ tới thầy, "Chim và ong đều có dục, ngay cả sâu bọ cũng có dục. Sau các anh lại cần một người thượng đế để dạy các anh về điều đó?” Xin thầy bình luận.
Thủ lĩnh phong trào tâm thức Krishna quốc tế là một kẻ ngốc Mĩ.
Ông ta đang làm một việc lớn. Và nói tới tôi, ông ta đã nói rằng "Ong có dục, chim có dục - sao các anh cần một người thượng đế để dạy các anh về dục?"
Một người thượng đế là cần để dạy các bạn về dục bởi vì các bạn thuộc Phong trào tâm thức Krishna. Các bạn đã quên mất dục là gì.
Tôi đã nghe nói rằng khi kẻ ngốc này đi qua, hai cậu nhỏ đang thảo luận khác biệt giữa người thường và các swamis này. Một cậu nhỏ có lớn hơn một chút nói, "Đợi đã, khi mày lớn thêm chút nữa thì mày sẽ biết."
Đứa kia nói, "Cái gì? Tao có thể không hiểu, mày thử giúp tao với."
Nó nói, "Đấy là khác biệt đơn giản. Những người này dùng cơ quan dục của họ để đi đái còn những người kia dùng nó cho cả việc khác nữa. Nhưng mày sẽ phải lớn thêm một chút nữa thì mày sẽ biết."
Thày giáo được cần để chỉ ra cho những người này rằng cơ quan dục không chỉ được trao cho bạn để đi đái. Tự nhiên có hi vọng cao hơn!
Một số trí thức phương Tây đã gọi thầy là nhà tâm lí và triết gia vĩ đại. Thầy có bao giờ hối tiếc về quyết định trở thành người thượng đế thay vì theo đuổi nghề nghiệp hàn lâm? Sau rốt, ai không muốn trong cùng toán của Freud hay Carl Jung?


Câu hỏi này có nhiều câu hỏi trong nó. Tôi sẽ rút ra từng câu hỏi một.
Thứ nhất, các nhà báo bao giờ cũng chơi trò ác ý. Họ bắt đầu gọi tôi là người thượng đế, tôi chưa bao giờ gọi mình là người thượng đế cả. Và thế rồi họ hỏi tôi, "Sao thầy gọi mình là người thượng đế?"
Không có loài nào trên thế giới mà có thể được gọi là người thượng đế. Chỉ con người là đủ - không có Thượng đế. Ít nhất tôi không thể tự gọi mình là ‘người thượng đế’ được, bởi vì tôi không chấp nhận bất kì sự tồn tại nào của thượng đế người sáng tạo ra thế giới.
Sự tồn tại bao giờ cũng đã ở đây và bao giờ cũng sẽ ở đây. Nó chưa bao giờ được tạo ra cả. Thượng đế là một giả thuyết để giải thích điều gì đó. Bởi vì sự tồn tại có đó, câu hỏi phát sinh trong tâm trí mọi người thông minh, "Ai đã tạo ra nó? Nó thành hình thế nào?" Từ thời của Rigvedas cho tới ngày nay - vẫn cùng câu hỏi đó. Và khi những câu hỏi như vậy nảy sinh trong tâm trí chúng trở thành sự hành hạ, bạn phải tìm ra câu trả lời nào đó. Thế rồi những người khôn ngoan, hay người không khôn ngoan, bắt đầu cho bạn sự an ủi. Họ nói, "Thượng đế đã tạo ra thế giới này.” Nhưng điều kì lạ là bạn không hỏi ai tạo ra Thượng đế; câu hỏi vẫn còn nguyên.
Nếu Thượng đế có thể có đó mà không có người tạo ra, thế thì tại sao sự tồn tại không thể có đó mà không có người tạo ra? Tại sao cứ thêm nhiều giả thuyết một cách không cần thiết - thượng đế A tạo ra thượng đế B, thượng đế B tạo ra thượng đế C... và bạn sẽ không đi tới cuối cùng, bạn sẽ rơi vào cái vòng hồi qui vô tận, và chung cuộc bạn sẽ thấy các câu hỏi này vẫn có đó nguyên si như nó trước đây. Toàn thể cuộc hành trình đã là vô tích sự. Và cho dù bạn chấp nhận, dù chỉ là về giả thuyết, rằng Thượng đế đã tạo ra thế giới này, điều đó không giải quyết được gì cả, nó tạo ra cả nghìn câu hỏi nữa. Tại sao ngài đã tạo ra thế giới này?
Tôi sắp đi một cuộc hành trình và tôi tới ông thợ may của mình và bảo ông ấy , "Ông làm cho tôi cái áo thụng - tôi chỉ có sáu ngày thôi, tôi sẽ rời thành phố vào ngày thứ bảy. Trong sáu ngày ông phải làm xong cái áo thụng."
Ông ấy là người Ki tô giáo. Ông ấy nói, "Nếu ông nói, tôi sẽ làm. Nhưng nhìn quanh thế giới mà xem. Thượng đế đã tạo ra thế giới trong sáu ngày và nó là một đống lộn xộn làm sao. Tôi sẽ tạo ra cái áo thụng trong sáu ngày, nhưng về sau đừng bảo tôi rằng nó chỉ là một đống lộn xộn!" Và bởi vì Thượng đế đã tạo ra đống lộn xộn, nên từ đó trở đi không ai thấy ngài đâu cả.
Hoặc là ngài đang ẩn nấp hoặc ngài chạy trốn. Các nhà vật lí nói các ngôi sao đang chạy ra ra với tốc độ ánh sáng. Có lẽ ngài đang cưỡi lên một ngôi sao lớn nào đó và đang chạy trốn khỏi đống lộn xộn mà ngài đã tạo ra.
Và tại sao ngài đã tạo ra nó vào một khoảnh khắc nào đó? Ngài đã làm gì trước đó? Người Ki tô giáo nói ngài đã tạo ra thế giới này đích xác bốn nghìn lẻ bốn năm trước khi Jesus Christ được sinh ra. Tôi giả sử nó phải là ngày mồng một tháng giêng. Bạn không thể tạo ra vào giữa năm được, bởi vì bạn có thể bắt đầu năm mới tại đâu?
Theo người Ki tô giáo, ngài đã tạo ra thế giới này chỉ mới sáu nghìn năm trước đây. Và ngài đã làm gì từ vĩnh hằng đã trôi qua trước đó? Chỉ ngồi im lặng, không làm gì sao? Và đột nhiên, không bởi lí do nào cả - không ai đòi hỏi ngài, không ai yêu cầu ngài - dường như chỉ là một chút ít lập dị - ngài đã tạo ra thế giới này; và thế giới này nơi mọi thứ đều sai, dù bạn thu xếp nó như thế nào.
Tôi đã nghe nói về một người mới mua một thứ đồ chơi cho con mình. Đấy là thứ đồ chơi bạn phải gắn lại. Nó có nhiều bộ phận, bạn phải gắn những bộ phận đó lại và thế thì nó mới có hình dạng nào đó. Ông ta gắn nó theo đủ mọi cách có thể. Ông ta là một giáo sư toán học, nhưng bất kì cái gì ông ta làm bao giờ cũng sai cả.
Ông ta vã mồ hôi trong trời lạnh. Cuối cùng ông ta tới ông chủ cửa hiệu và ông ta nói, "Cái gì bị sai. Tôi không thể nào xoay xở được với đồ chơi này. Cả đời tôi đã dành cho toán học. Dù ông có làm gì, nó bao giờ cũng xoay vòng.” Người chủ bắt đầu mỉm cười. Ông ta nói, "Nó sẽ quay vòng, dù ông làm bất kì cái gì." Ông ta nói, "Thôi được, đây là cái loại trò chơi gì vậy?"
Ông chủ tiệm nói, "Cái này biểu thị cho thế giới. Và tốt hơn cả là cho con ông là học từ ngay ban đầu rằng bất kì điều gì ông làm, nó sẽ sẽ sai! Trò chơi này đã được tạo ra bằng thiên tài vĩ đại để dạy cho trẻ con, ‘Đừng lo. Tại đây, mọi thứ đúng không xảy ra. Không có cách nào để làm mọi thứ theo cách đúng. Mọi cách đều đưa tới cái gì đó sai. Ông bao giờ cũng kết thúc trong đống lộn xộn! Đây là trò chơi giáo dục.’"
Giả thuyết về Thượng đế không có tác dụng. Tôi không có giả thuyết nào về Thượng đế. Với tôi cuộc sống là thiêng liêng. Với tôi sự tồn tại là mang tính thượng đế, không phải là Thượng đế. Dùng từ ‘người thượng đế’ cho tôi đơn giản là ngu xuẩn. Nhưng các nhà báo bắt đầu gọi tôi như thế, và thế rồi bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy tự gọi mình là người thượng đế?"
Kì cục! Họ bắt đầu gọi tôi là guru của người giầu và thế rồi họ bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy tự gọi mình là guru của người giầu?" Họ bắt đầu gọi tôi là guru dục, và thế rồi họ bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy tự gọi mình là guru dục?"
Tôi chưa bao giờ tự gọi mình là người thượng đế. Vâng, những người yêu tôi đã gọi tôi là bhagwan, nhưng bhagwan không có nghĩa là Thượng đế. Chúng ta đã gọi Phật Gautam là Phật Bhagwan - và ông ấy không tin vào Thượng đế nào.
Cho nên 'Bhagwan' không thể đồng nghĩa với Thượng đế được. 'Bhagwan' đơn giản nghĩa là người được ân huệ, người đã đạt tới phúc lạc tối thượng, an bình, vui vẻ của bản thể riêng của người đó. Và tôi nói với bạn rằng tôi là người được ân huệ, nhưng tôi không phải là người thượng đế. Tôi đơn giản là người đã mãn nguyện.
Thứ hai, câu hỏi của bạn hỏi, "Tôi được mọi người ca ngợi như nhà tâm lí vĩ đại, như triết gia. Tại sao tôi bắt đầu tự gọi mình là người thượng đế?"
Một nửa của nó tôi đã trả lời rồi. Về nửa còn lại, tôi không phải là nhà tâm lí. Nhà tâm lí tìm tòi trong những sự phức tạp của tâm trí. Tôi là thiền nhân người không bận tâm tới tâm trí mà đơn giản đi ra ngoài nó.
Phật Gautam không phải là nhà tâm lí. Thành tựu của ông ấy không phải là tri thức của tâm trí, mà là kinh nghiệm về vô trí. Nó ở ngoài tâm lí. Tôi đã kinh nghiệm vô trí.
Tôi không thể cho phép bất kì ai gọi tôi là nhà tâm lí. Tôi không phải vậy. Và tôi không nghĩ rằng những người là nhà tâm lí lại có cái gì dành cho một người đã biết cái gì đó bên ngoài tâm trí. Tôi muốn bạn nhớ rằng các nhà tâm lí tự tử gấp hai lần so với các nghề nghiệp khác, họ phát điên gấp ba lần các nghề nghiệp khác. Tôi không muốn thuộc vào một nhóm có nửa người điên như vậy.
Bạn hỏi, "Được xếp vào cùng hạng với các nhà tâm lí lớn như Freud và Jung không tốt hơn sao?"
Không. Với tôi, cả hai đều bệnh hoạn bởi vì cả hai đều ở bên dưới im lặng của bản thể bên trong riêng của họ. Họ vẫn đang vật lộn với những ý nghĩ trống rỗng, lời rỗng tuếch, không cái gì. Và nếu bạn nhìn vào cuộc sống của họ, bạn có thể thấy điều đó.
Sigmund Freud, người sáng lập ra phân tâm học, sợ chết thế - tôi cho rằng không ai đang ở đây sợ nhiều đến vậy. Bạn không thể quan niệm nổi, nhưng ngay cả từ ‘chết’ cũng bị cấm kị, nó không được thốt ra trong sự hiện diện của ông ấy. Hai lần chuyện xảy ra là ai đó nhắc tới cái chết và ông ấy ngã nhào từ ghế ngồi và ngất đi, mồm sùi bọt mép. Sigmund Freud nằm ngay đơ trên đất. Nhà sáng lập vĩ đại của phân tâm học thậm chí không có đủ dũng cảm để nghe từ ‘chết’. Tôi không muốn được xếp vào cùng loại với những người này.
Jung bị đuổi đi; trong phong trào phân tâm ông ấy là người thứ hai chỉ sau Sigmund Freud. Mọi người  cứ tưởng ông ấy sẽ là người kế tục của Freud. Và ông ấy thông minh sâu sắc. Nhưng ông ấy đã bị đuổi ra khỏi phong trào bởi vì ông ấy quan tâm tới ma. Sigmund Freud bảo ông ấy, "Vứt điều này đi. Tôi thậm chí không thể dung thứ được cho những lời này."
Mối quan tâm của ông ấy là vào điều xảy ra bên kia cái chết, cho nên một cách tự nhiên ông ấy quan tâm tới cái chết, tới ma, và điều này là lí do cơ bản để ông ấy bị tống ra. Bạn chắc sẽ nghĩ rằng ông ấy là con người dũng cảm nhưng không phải vậy đâu. Mọi quan tâm của ông ấy về ma và cái chết và điều xảy ra bên kia cái chết chỉ là về mặt trí tuệ. Ông ấy muốn tới Ai cập để xem các xác chết cổ được bảo quản như các xác ướp. Mười hai lần ông ấy đã đặt chỗ và mười hai lần ông ấy huỷ chỗ. Cả đời ông ấy muốn đi, nhưng khi ngày đi tới, ông trở nên sợ việc thấy xác chết ba nghìn năm, ông ấy sẽ tìm ra cái cớ nào đó và huỷ vé.
Ông ấy đã tới Ấn Độ; ông ấy tới các đại học. Ông ấy đã ở đây trong ba tháng và điều đơn giản ngu xuẩn là đi nói với các nhà phân tâm trong các đại học bởi vì họ đã được dạy ở phương Tây - họ là con vẹt. Ông ấy đã tới để cố gắng hiểu tâm lí học phương Đông. Nhiều người đã gợi ý cho ông ấy rằng nếu ông ấy muốn hiểu tâm lí phương Đông thế thì ông ấy đến sai người rồi; nếu ông ấy muốn hiểu tâm lí phương Đông thế thì có một một người ở miền Nam, Raman Maharshi. Tới người đó, người thậm chí đã không nghe tới từ ‘tâm lí'.
Ông ấy đã tới Madras và thế rồi nỗi sợ túm lấy ông ấy bởi vì ông ấy đã nghe nói rằng những người này có quyền năng thôi miên, mắt họ thôi miên, cử chỉ của họ là thôi miên, và đi tới những người này là nguy hiểm, họ có thể cải tâm bạn. Bạn sẽ quên mất hoàn toàn bạn đã tới để làm gì; họ có thể đặt bạn vào con đường mới. Từ Madras ông ấy đã quay lại. Chỉ hai giờ nữa là ông ấy sẽ đạt tới Shri Raman Maharshi - một người đơn giản không có tri thức sách vở, nhưng có việc tự hiểu mênh mông - người đã đạt tới, người đã về nhà.
Chắc chắn ông ấy có hào quang. Trong sự hiện diện của ông ấy có từ trường, nhưng nó không làm lạc đường bạn, nó không dẫn lầm bạn. Đây là cách thức của phương Đông, tìm ra một người đã tìm thấy bản thân mình và ngồi dưới chân người đó, chỉ trong im lặng. Không cần nói gì. Im lặng của người đó có thể bắt đầu làm chuyển động trái tim bạn theo nhịp điệu mới, với âm nhạc mới, điều bạn chưa từng nghe thấy trước đây - hài hoà mới, đồng bộ mới.
Đầu tiên, điều đó sẽ xảy ra giữa đệ tử và thầy, và thế rồi nó sẽ bắt đầu xảy ra với cây cối, với dòng sông, với núi non, với đại dương, với các vì sao, với bản thân sự tồn tại. Thầy chỉ là cánh cửa. Người Sikhs là đúng khi gọi đền thờ của họ là Gurudwara. Nó đơn giản nghĩa là ‘thầy là cánh cửa'.
Và khi ông ấy về tới nhà thì mọi người hỏi tại sao ông ấy đã không gặp người đã thực sự bắt rễ vào phương Đông. Đi tới các đại học, vốn là sản phẩm phụ của phương Tây, đơn giản chỉ là việc phí thời gian. Tuy nhiên, ông ấy đã bắt đầu tìm ra những giải thích, những hợp lí hoá. Và việc hợp lí hoá của ông ấy là, "Tôi đã tránh việc gặp những người này bởi vì phương Đông có cách thức riêng của nó, phương Tây có cách thức riêng của nó, và chúng khác nhau, khác đối lập tới mức thật nguy hiểm mà trộn lẫn chúng."
Đây là an ủi và hợp lí hoá, nhưng tuyệt đối tinh ranh. Bạn có thể dạy người phương Đông các cách thức phương Tây. Bản thân ông ấy, trong viện của mình ở Zurich, đã dạy cho người phương Đông cách thức phương Tây. Điều đó là được, điều đó không quấy rầy ai cả. Nhưng ông ấy không thể học được từ phương Đông bởi vì điều đó có thể gây rối loạn. Nếu ông ấy thực sự thành thực, ông ấy nên từ chối người phương Đông không cho quyền nghiên cứu tại viện của ông ấy. Ông ấy nên bảo họ, "Đây không phải là cách thức của các ông. Đi tới Shri Raman Maharshi đi. Đừng tới đây."
Nhưng không, nếu mọi người từ phương Đông tới, điều đó hoàn toàn được để ước định tâm trí họ, để lập trình tâm trí họ, để nhồi nhét vào tâm trí họ đủ thứ rác rưởi. Nhưng khi ông ấy tới đây, ông ấy đã né tránh những người có thể giúp cho ông ấy gạt bỏ đi mọi rác rưởi, người có thể giúp bạn trở nên tuyệt đối im lặng và an bình, trong hài hoà sâu sắc với sự tồn tại.
Tôi không thấy rằng việc hài hoà với sự tồn tại lại có thể gây phiễn nhiễu cho bất kì ai. Không một thiền nhân nào đã từng tự tử, không một thiền nhân nào đã từng phát điên.
Tâm lí học phương Tây không có gì để dạy cho phương Đông cả. Nó có mọi thứ cần học từ phương Đông, bởi vì nó vẫn làm việc trong tâm trí. Toàn thể cách tiếp cận của chúng ta là siêu việt lên trên tâm trí, không bị bận tâm với nó, bỏ lại nó đằng sau. Bạn là lớn hơn nó.
Tâm lí học phương Tây nghĩ tâm trí là tất cả; nó không phải vậy, nó chỉ là bề mặt thôi. Thực tại bên trong nhất của bạn ở xa xôi với tâm trí bạn. Nó ở gần với sự tồn tại vũ trụ hơn. Nó ở gần ngôi sao xa nhất hơn là ở gần tâm trí riêng của bạn. Và khoảnh khắc bạn siêu việt lên trên tâm trí, tâm trí bắt đầu dừng lại theo cách riêng của nó, bởi vì bạn không còn cung cấp năng lượng cho nó, bạn không còn cho nó chất nuôi dưỡng. Nó chết đi theo cái chết tự nhiên của nó. Khoảnh khắc lớn lao nhất trong cuộc sống là khi tâm trí bạn bị siêu việt qua, khi bạn biết bản thân mình, rằng bạn còn nhiều hơn tâm trí mình - thế thì lo âu, đau khổ, vô nghĩa, tất cả đều biến mất.
Tôi không phải là nhà tâm lí. Các nhà tâm lí cần học nhiều và họ có thể học chỉ nếu họ hiểu rằng có cái gì đó còn nhiều hơn tâm lí trong con người - rằng người đó có linh hồn.
Và tôi không phải là triết gia nữa. Một trong những điều không may nhất là khái niệm phương Đông về darshan đã bị dịch sang tiếng Anh thành triết lí. Ngay cả những người như Tiến sĩ Radhakrishnan... nhưng đây tất cả đều là các giáo sư, họ không phải là nhà huyền môn. Họ đã đồng ý với việc dịch này - tôi không đồng ý. Bởi vì triết lí có nghĩa là ‘suy nghĩ về chân lí’, và một điều không thể có được trong thế giới này là suy nghĩ về chân lí. Điều đó giống như người mù nghĩ về ánh sáng. Người đó sẽ nghĩ thế nào? Và bất kì điều gì người đó nghĩ, thậm chí sẽ không lại gần với kinh nghiệm về ánh sáng. Ánh sáng hoặc có thể được thấy hoặc không được thấy, nhưng bạn không thể nghĩ về nó được.
Bạn không thể nghĩ về tình yêu được. Hoặc là bạn có thể yêu, hoặc bạn không thể yêu, nhưng bạn không thể nghĩ về nó được.
Tôi không phải là triết gia, tôi là nhà huyền môn. Tôi không nghĩ về chân lí, tôi đã thấy nó. Và điều kì lạ nhất về chân lí là ở chỗ việc thấy nó là phải là nó. Bạn không thể thấy nó như một đối thể, bạn chỉ có thế thấy nó như bản thân bạn. Khoảnh khắc bạn kinh nghiệm bản thân mình - khi người quan sát và vật được quan sát là một, khi người thấy và cái thấy là một, khi cái được kinh nghiệm và người kinh nghiệm là một - chân lí hiển lộ.
Triết lí phương Tây đã là kinh nghiệm lâu dài nhất về vô tích sự. Không một triết gia phương Tây nào - Plato, Aristotle, Bacon, Kant, Hegel, Russell - không một triết gia phương Tây nào đã từng có một thoáng nhìn.
Toàn thể câu chuyện của họ được viết trong Panchtantra đã năm nghìn tuổi rồi. Trong một làng, một con voi lần đầu tiên tới và làng có năm người mù. Họ rất kích động, còn bị kích động hơn những người có mắt, cũng là tự nhiên, bởi vì những người có mắt có thể thấy, thế rồi kích động qua đi. Năm người mù này bị kích động thế để tìm ra cái gì đã tới.
Họ chạm vào con voi, ai đó chạm vào chân và nói, "Trời! Voi không là gì ngoài cây cột."
Và ai đó chạm vào tai voi và nói, "Anh ngốc! Anh phải chạm vào cột nào đó rồi. Voi không phải là cột nhà, nó giống như cái quạt lớn dùng cho vua," vân vân và vân vân. Năm người cãi nhau, và một người có mắt quan sát thấy và cười to.
Toàn thể triết học phương Tây được viết ra trong câu chuyện đó. Tất cả những người mù này đều sờ và đi tới kết luận và cãi nhau với người khác. Và triết lí phương Tây không là gì khác ngoài biện luận - không phải là việc nhận ra. Do đó các triết gia phương Tây sẽ vẫn còn là người thường. Ông ta sẽ có các ý niệm lớn lao, ông ta sẽ làm ra các hệ thống lớn, nhưng cá tính riêng của ông ta, tính cá nhân riêng của ông ta, sẽ vẫn còn rất bình thường. Ông ta không thể nào trở thành một Phật Gautam, ông ta không thể nào trở thành một Lão Tử, ông ta không thể nào trở thành một Trang Tử, bởi vì họ không phải là các triết gia; những người này là những người đã cố gắng để nhìn vào bên trong, để đạt tới chính trung tâm của bản thể của mình.
Và trung tâm của bản thể của tôi cũng là trung tâm của mọi người, nó là trung tâm của toàn thể sự tồn tại. Do đó nếu tôi có thể biết bản thân tôi, tôi đã biết được tất cả.
Tôi không muốn bị phân loại thành triết gia. Không phải là suy nghĩ của tôi về chân lí mà tôi chia sẻ với mọi người của tôi đâu, nó là kinh nghiệm của tôi mà tôi đang chia sẻ đấy. Nó không phải là ý niệm của tôi - nó là hương vị của tôi, nó là nhịp đập trái tim của tôi. Nếu bạn muốn gọi tôi là cái gì thì bạn có thể gọi tôi là nhà huyền môn, nhưng xin bỏ cái từ xấu xí người thượng đế kia đi.
Không giống như các bậc thầy tâm linh của quá khứ, những người dứt khoát trong lời nói của mình và hiếm khi cười, thầy bao giờ cũng thể hiện một cảm giác khôi hài lớn. Xin thầy bình luận. Và xin thầy kể cho tôi chuyện đùa thầy ưa thích!
Cảm giác khôi hài là đóng góp cơ bản của tôi cho tính tôn giáo. Tất cả những người tôn giáo đều đã buồn rầu và trịnh trọng và ốm yếu. Bạn không thể sống với họ được. Đó là lí do tại sao mọi người đơn giản tới chạm chân họ rồi chạy mất, bởi vì họ chán thế. Chỉ ngồi bên họ một chút thôi, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy chán theo.
Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng nếu có cõi trời nơi các thánh nhân và hiền giả và mahatmas tất cả đã tới, thế thì tôi không muốn tới đó đâu, bởi vì đấy sẽ là chỗ buồn nhất trong toàn thể sự tồn tại. Và mọi người sẽ cố gắng buồn hơn người khác.
Cảm giác khôi hài là cái gì đó đặc biệt nhân bản. Trâu không cười, chúng tất cả đều là các thánh. Lừa không kể chuyện đùa, chúng tất cả đều là các mahatmas. Trong các kiếp sống quá khứ chúng đã là các thánh nhân và mahatmas. Đó là lí do tại sao chúng đã đã đạt tới địa vị lớn vậy.
Đây là những người sẽ đi lên cõi trời. Nếu sau cái chết bạn được hỏi về nơi mình muốn tới, xin nhớ nói, "Bất kì chỗ nào ông đem tôi đi, cứ đem đi - nhưng tôi không muốn tới nơi các thánh nhân tới!" Ngay cả địa ngục sẽ tốt hơn. Bạn sẽ tìm thấy những người tốt hơn, đẹp hơn, lí thú hơn.
Bây giờ đến chuyện đùa. Và bởi vì nó được nhà báo yêu cầu nên nó sẽ là về ba nhà báo. Cả ba người này đều đã về hưu: một người tám mươi, người kia tám nhăm và người thứ ba chín mươi. Thói quen thông thường của họ là đi dạo buổi tối, ngồi trong công viên và thảo luận về những ngày xưa vàng son.
Một hôm chuyện xảy ra là nhà báo thứ nhất, người tám mươi tuổi, nói,"Tôi cảm thấy xấu hổ quá, chuyện thật đau lòng. Nó giống như một vết thương vậy." Hai người kia nói, "Chuyện gì vậy? Ai làm ông đau lòng?" Ông ta nói, "Không ai làm tôi đau lòng cả. Tôi vừa mới bị bắt quả tang."
Hai người kia nói, "Ông lại làm bí ẩn về nó rồi. Cứ đơn giản kể cho chúng tôi toàn thể mọi sự đi! Chuyện gì xảy ra?" Ông ta nói, "Tôi bị mẹ tôi bắt quả tang." Họ nói, "Về cái gì?"
Ông ta nói, "Bây giờ nói điều ấy thế nào nhỉ? Tôi đã nhòm qua lỗ khoá khi một người đàn bà đẹp đang tắm và mẹ tôi đã bắt được tôi. Tôi thấy xấu hổ quá."
Hai ông bạn già kia cười phá lên. Một người nói, "Này con, đừng có làm phiền phức lên, chuyện ấy xảy ra cho mọi người. Trong thời trẻ con ai mà không nhìn qua lỗ khoá, nhìn vào buồng tắm, và còn cái gì khác để làm đâu? Lỗ khoá làm ra là để dành cho việc đó. Đàn bà đẹp được làm ra cho việc đó. Đừng thấy xấu hổ - chúng ta tất cả đều bị bắt nhưng điều đó không có nghĩa là..."
Người này nói, "Các ông không hiểu gì cả. Các ông cứ nói với tôi, "Đừng cảm thấy xấu hổ, đừng cảm thấy xấu hổ." Vấn đề không phải là thời trẻ con nữa! Nó xảy ra hôm nay!" Thế là có im lặng. Điều này thành quá thể, nếu nó xảy ra hôm nay.
Người thứ hai nói, "Ừ, chúng tôi có thể hiểu được. Tôi sẽ kể cho các ông câu chuyện của tôi, sẽ đem lại cho các ông sự an ủi. Bây giờ là ngày thứ ba tôi đã không làm tình với vợ. Bà ấy chuyên chê bai đến mức bất kì khi nào tôi định nói yêu thì bà ấy ngay lập tức quay sang phía bên kia và nói, 'Tôi nhức đầu, đủ rồi. Bây giờ không thêm nữa.'"
Bây giờ hai người kia cùng cười. Người thứ ba, người già nhất, nói, "Các ông có biết yêu của ông ấy không? Trước hết ông nói xem ông ngụ ý yêu là gì!"
Ông ta nói, "Đấy là quá trình rất đơn giản. Mọi đêm tôi cầm tay bà ấy trong tay tôi rồi bóp ba lần. Thế rồi tôi ngủ say và ngáy. Nhưng trong ba ngày cái bà hay chê bai ấy lại không cho tôi làm tình. Tôi có thể hiểu các ông cảm thấy xấu hổ, đau lòng. Tôi cảm thấy đau lòng. Ngay vợ riêng của tôi, vào độ tuổi này, cũng phản bội tôi!"
Người thứ ba nói, "Điều xảy ra cho tôi sẽ làm cho các ông quên ngay tất cả mọi rắc rối của mình. Sáng nay khi tôi bắt đầu dàn xếp để làm tình với vợ tôi thì bà ấy nói, 'Ông làm gì đấy?'
"Tôi nói, 'Tôi làm gì à? Tôi chỉ làm điều đáng phải làm. Tôi định làm tình.'
"Vợ tôi nói, 'Ông ngu lắm! Đây là lần thứ tư trong đêm rồi! Ông không ngủ mà ông cũng không để tôi ngủ! Yêu, yêu, yêu... không có giới hạn nào cho nó cả.'
"Tôi nói, 'Trời, điều đó có nghĩa là trí nhớ của tôi mất rồi. Tôi đã hoàn toàn quên mất rằng tôi đã làm tình ba lần.'
"Và các ông đang nói về rắc rối của các ông. Nghĩ tới rắc rối của tôi đây này, trí nhớ của tôi mất rồi. Ít nhất điều tốt là tôi vẫn có thể phân biệt được ngày và đêm."
Cho nên mọi người đều có vấn đề của mình.
Nhìn vào vấn đề với khôi hài là tính người. Ngoại trừ con người không con vật nào có thể cười. Và các tôn giáo của bạn đã ngăn cản bạn không cho cười.
Trong các trường học họ dạy về ba R; tôi dạy về ba L... Life, Love, Laughter - Cuộc sống, Tình yêu, Tiếng cười.
Xem tiếp Quay về Mục lục