Đàn bà trên khắp thế giới thấy thầy cực kì hấp dẫn; theo phê
phán của thầy, một cách định mệnh vậy. Thầy mô tả thế nào về hấp dẫn giới tính
riêng của thầy?
Toàn thể lịch sử
của con người là lịch sử của sự kết án đàn bà bởi mọi xã hội, bởi mọi nền văn
hoá, bởi mọi tôn giáo. Thậm chí trong số những người vĩ đại nhất đã từng bước
đi trên trái đất này cũng không có lấy một người kính trọng phụ nữ. Moses,
Jesus, Mohammed, Mahavira, ngay cả Phật, đã lên án đàn bà theo cách này cách
khác. Tôi là người đàn ông đầu tiên đã cho đàn bà cùng kính trọng như đàn ông.
Điều đó không liên quan gì tới hấp dẫn giới tính cả.
Trong các giáo
đường Do Thái, đàn bà không thể ngồi cùng đàn ông, có một bức màn mà họ phải ngồi
đằng sau. Họ không được coi là bình đẳng ngay cả về mặt tâm linh. Khi Indira
Gandhi đến thăm Israel, một phụ nữ khác đã là thủ tướng của Israel. Indira muốn
thăm một giáo đường.
Nữ thủ tướng Do
Thái này lo nghĩ bởi vì sự phân tách là điều sỉ nhục thế. Bà ấy đã làm thu xếp
đặc biệt là cả hai thủ tướng sẽ ngồi trên bao lơn để cho không đàn ông nào có
thể trông thấy được họ, và Indira sẽ không trở nên nhận biết rằng đàn bà bị đối
xử theo cách bẽ mặt thế. Indira đã không biết về truyền thống này. Bà ấy nói với
thủ tướng Israel, "Đây quả là điều gì đó lớn lao. Các thủ tướng nước bà có
chỗ đặc biệt trên bao lơn trong mọi giáo đường không? Ngay cả một thủ tướng
khách mời?" Và người ta nói rằng thủ tướng Do Thái đơn giản mỉm cười không
trả lời bởi vì thực tại hoàn toàn khác - đấy không phải là tình huống kính trọng,
đấy là tình huống sỉ nhục. Để tránh điều đó, bà ta đã tạo ra cái mẽ ngoài này.
Các tín đồ tốt
nhất của Jesus đều là đàn bà, nhưng không người nào được ông ấy và nhà thờ của
ông ấy chấp nhận làm tông đồ của ông ấy. Mười hai tông đồ tất cả đều là đàn
ông, và khi ông ấy bị đóng đinh, tất cả mười hai tông đồ này đều trốn sạch. Họ
đã chứng tỏ đơn giản là những kẻ hèn nhát, sợ rằng nếu họ bị bắt, cùng định mệnh
đó sẽ là của họ. Nhưng ba người đàn bà... Mary Magdalene đã có thời là gái mãi
dâm, nhưng khi cô ấy thấy Jesus cô ấy đã yêu ông ấy và giáo huấn của ông ấy và
chấm dứt việc làm gái mãi dâm. Cô ấy ở đó gần cây chữ thập. Gái mãi dâm đó đã
làm bẽ mặt tất cả mười hai tông đồ kia.
Mẹ của Jesus,
Mary, cũng đứng gần cây chữ thập. Jesus chưa bao giờ thậm chí kính trọng mẹ
mình bởi vì bà ấy là đàn bà. Có lần ông ấy đã nói với đám đông và ai đó từ bên
ngoài kêu lên, "Jesus, mẹ ông đang đứng đây. Bà ấy muốn gặp ông, bà ấy đã
không gặp ông ba năm nay rồi."
Và cách thức
Jesus đáp lại xấu thế, không thể hình dung nổi, đến mức điều đó làm suy giảm
toàn thể giáo huấn của ông ấy. Ông ấy nói, "Bảo người đàn bà đó..."
Ông ấy thậm chí không thể dùng tới từ mẹ "Bảo người đàn bà đó rằng ta
không phải là con bà ấy. Cha ta ở trên trời, và ta là đứa con duy nhất của
ngài."
Điều này hoàn
toàn vượt ra ngoài hoàn cảnh này - rằng người đàn bà đáng thương đó đơn giản muốn
gặp ông ấy. Không cần phải nói điều này. Nói, "Bảo người đàn bà
đó..." chỉ ra thái độ của ông ấy đối với đàn bà.
Mohammed không
có kính trọng với bất kì đàn bà nào. Ông ấy cho phép mỗi người Mô ha mét giáo
được cưới nhiều đàn bà hơn bất kì tôn giáo nào khác đã cho phép, ít nhất bốn
đàn bà. Bản thân ông ấy đã lấy chín đàn bà. Tín đồ của ông ấy đã đối xử với đàn
bà như súc vật. Nizam tại vùng Hyderabad có năm trăm vợ, ngay cả trong thế kỉ
này.
Parasuram, hoá
thân Hindu của Thượng đế, được lệnh của bố mình giết chết mẹ mình và đem đầu mẹ
về để chứng minh rằng mình đã giết mẹ, bởi vì người bố nghi ngờ rằng vợ mình
yêu người đàn ông khác. Và Parasuram đã không ngần ngại.
Một người không
bao giờ có thể chắc chắn ai là bố mình. Người bố cũng không thể chắc chắn được
rằng con mình có thực là con mình không, chỉ người mẹ biết. Nhưng ông ta đã
theo lệnh của bố mình, người bố đã nghi ngờ rằng vợ mình yêu ai đó khác. Có khả
năng Parasuram không phải là con của người này. Nhưng chặt đầu người đàn bà
không phải là vấn đề. Dầu vậy, Parasuram vẫn cứ là một trong những hoá thân của
Hindus.
Krishna đã vượt
qua mọi người Nizams và mọi người Mô ha mét giáo. Ông ấy đã có một vợ mà ông ấy
cưới, và mười sáu nghìn vợ đánh cắp của người khác. Bất kì khi nào ông ấy thấy
bất kì đàn bà đẹp nào, thế là đủ, cô ấy sẽ bị bắt về lâu đài của ông ấy. Không
đàn ông nào đã làm những tội như vậy như Krishna, nhưng ông ấy đã được tôn thờ.
Mahavira, nhà
tiên tri quan trọng nhất của Jaina giáo, dạy rằng đàn bà không thể được giải
thoát khỏi thân thể và thế giới. Trước hết, cô ấy phải được sinh ra làm người
đàn ông và chỉ thế thì cô ấy mới có thể đạt tới được moksha, nhưng không trực
tiếp từ thân thể của đàn bà. Và những người này đã từng nhất quán, khăng khăng
nói rằng linh hồn không nam không nữ, rằng thân thể còn lại sau, chỉ linh linh
hồn chuyển đi, cho nên tại sao phân biệt phải được tạo ra - rằng linh hồn của
đàn ông có thể đạt tới đỉnh cao nhất của tâm thức nhưng linh hồn đàn bà không
thể đạt được?
Phật Gautam đã
không cho phép bất kì đàn bà nào được điểm đạo thành sannyas của ông ấy trong
hai mươi năm. Hàng nghìn đàn bà kêu khóc, nhưng người này, người được coi là
con người từ bi nhất trên thế giới, cứ từ chối họ. Ông ấy đã không chấp nhận
đàn bà làm đệ tử trong hai mươi năm.
Cũng chỉ bởi
trùng hợp ngẫu nhiên mà cuối cùng ông ấy đã phải chấp nhận đàn bà. Ngày ông ấy
ra đời mẹ ông ấy chết. Người em của mẹ ông ấy đã không lấy chồng, chỉ để cho bà
ấy có thể chăm sóc cho đứa nhỏ này. Không người mẹ nào đã yêu bất kì đứa trẻ
nào như cách người đàn bà này đã yêu, như cách người đàn bà này đã hi sinh.
Trong tuổi già
của mình bà ấy tới và yêu cầu được điểm đạo. Có im lặng mênh mông trong mười
nghìn sannyasins của Phật Gautam và bản thân ông ấy cũng trong khó xử. Người
đàn bà này đã hi sinh cả đời mình cho ông ấy và nói 'không' có cảm giác không
phải với ông ấy. Một cách miễn cưỡng ông ấy đã điểm đạo cho bà ấy, nhưng kết án
sâu sắc đến mức trong bài nói điểm đạo của mình ông ấy đã nói, "Tôn giáo của
ta dự định kéo dài năm nghìn năm, nhưng bởi vì ta đã điểm đạo cho đàn bà vào
công xã các sannyasins của ta, tôn giáo của ta sẽ chỉ kéo dài năm trăm
năm."
Bạn có thấy vấn
đề không? Ông ấy đang đổ trách nhiệm lên bà già đáng thương này về việc phá huỷ
tôn giáo của ông ấy. Từ năm nghìn năm xuống năm trăm nghĩa là bốn nghìn năm
trăm năm bị hi sinh đi bởi vì một người đàn bà đã được điểm đạo. Bạn có thể kết
án ai đó nhiều hơn thế không?
Đàn bà được hấp
dẫn tới tôi. Đấy không phải là hấp dẫn giới tính; đấy là hấp dẫn tâm linh, bởi
vì tôi là người đàn ông đầu tiên đã không tạo ra sự phân biệt nào giữa đàn ông
và đàn bà khi có liên quan tới sự phát triển tâm linh.
Đàn bà đang
tranh đấu trên khắp thế giới, đặc biệt ở các nước tiên tiến, vì việc giải phóng
bình thường khỏi đàn ông. Tôi đã cho họ giải thoát tối thượng, bình đẳng về tâm
thức. Và nếu họ yêu tôi, điều đó không liên quan gì tới dục cả. Nó có cái gì đó
liên quan tới siêu tâm thức.
Tôi đã nghe nói
từ các nguồn đáng tin cậy rằng trong năm 1969, khi Indira Gandhi cuối cùng có
hai ý kiến về Morarji Desai, thầy đã khuyên bà ấy nên sa thải ông ấy khỏi nội
các và cuối cùng bà ấy đã làm như vậy. Đây có phải là lí do đằng sau thái độ đối
kháng của ông ấy với thầy không?
Điều đó là
đúng. Bà ấy đã thảo luận với tôi liệu có nên loại bỏ Morarji Desai khỏi nội các
hay không, và tôi đã nói với bà ấy, "Vấn đề không phải là Morarji Desai. Nếu
bất kì ai chống lại quốc gia đang tiến triển, nếu người đó là hòn đá ngáng đường
trong sự tiến triển của đất nước, thế thì dù người đó là ai, người đó nên bị loại
bỏ ngay lập tức - không nên có hai ý kiến về điều đó."
Đối kháng của
Morarji Desai với tôi không chỉ phụ thuộc vào sự kiện này - nó đã bắt đầu từ mười
năm trước đây. Hai mươi người trên khắp đất nước đã được Acharya Tulsi mời tới
dự một cuộc tụ tập; họ tổ chức một lễ hội lớn. Cuộc tụ tập thật lớn, gần một
trăm nghìn người.
Tôi là một
trong số hai mươi người đó và Morarji Desai cũng vậy. Morarji Desai lúc đó là bộ
trưởng bộ tài chính. Một sự việc xảy ra làm bắt đầu sự đối kháng của ông ta, thế
rồi nhiều điều khác được thêm vào nó. Từ phía tôi không có đối kháng nào với
ông ấy.
Sự cố là hai
mươi vị khách mới này đều ngồi trên sàn còn Acharya Tulsi, người chủ, ngồi ở bục
cao hơn; không ai bận tâm về điều đó cả. Morarji, cũng giống hệt nhà lãnh đạo
chính trị, tới sau cùng.
Hai mươi người
đã tụ tập để trước nhất thảo luận về các vấn đề con người trước khi họ phát biểu
cho một trăm nghìn người đang đợi bên ngoài. Nhưng Morarji đã nói khi ông ta bước
vào, "Trước khi bất kì câu hỏi nào khác được nêu ra tôi phải hỏi hai câu hỏi.
Thứ nhất, khi tôi vào tôi đã chắp tay theo cách Ấn Độ chúng ta vẫn chào nhau,
nhưng Acharya Tulsi đã không đáp lại bằng việc chắp tay. Thay vì thế, ông ấy
giơ một tay lên ra dấu ban phúc lành."
Điều đó là rất
xấc xược với ông ấy, mặc dầu Acharya Tulsi đơn giản tuân theo truyền thống
Jaina - rằng duy nhất một sư có thể ban phúc cho bạn bởi vì ông ấy cao hơn bạn.
Ông ấy đã từ bỏ thế giới, bạn còn chưa từ bỏ thế giới. Bạn có thể cúi mình chắp
tay, bạn có thể chạm chân ông ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là ông ấy sẽ đáp
ứng theo cùng cách. Truyền thống này là xấu, bởi vì với tôi, người cao hơn nên
khiêm tốn hơn.
Và ông ấy nói,
"Câu hỏi thứ hai là: tại sao khách ngồi trên sàn còn ông, người chủ, ngồi
trên bục cao hơn? Trước hết, ông trả lời hai câu hỏi này
và thế rồi chúng ta có thể thảo luận các điều khác."
Bản thân
Acharya Tulsi không phải là người tôn giáo. Ông ấy mặc quần áo tôn giáo nhưng
ông ấy có một tâm trí rất chính trị. Ông ấy dính chặt vào cái gì phải làm, cách
trả lời; ông ấy không muốn gây phiền nhiễu
Morarji Desai. Có im lặng trong vài giây, thế rồi tôi nói - Morarji
Desai đang ngồi cạnh tôi - tôi nói, "Câu hỏi này đã không được hỏi cho tôi
cho nên tôi phải xin phép cả hai bên. Acharya Tulsi đã được hỏi nhưng ông ấy dường
như không có câu trả lời. Nếu ông ấy cho phép tôi trả lời tôi có thể trả lời,
nhưng tôi muốn Morarji Desai cho phép tôi, bởi vì ông ấy đã không hỏi
tôi." Ông ta nói, "Câu trả lời tới từ đâu không thành vấn đề. Tôi muốn
có câu trả lời."
Tôi nói,
"Bây giờ mọi thứ có thể được làm rõ ra. Một điều: có hai mươi khách, mười
chín khách đã trải qua cùng quá trình, và không ai nêu ra câu hỏi này. Ông dường
như là một người rất bản ngã, do đó câu hỏi này đã nảy sinh trong tâm trí ông.
Nếu không thì có hề chi? Ông ấy đang ngồi trên bục cao, ông ấy có thể treo mình
trên trần nhà, vậy mà ông ấy sẽ không ở vị trí cao nhất. Còn có nhện đi trên trần,
các ông đều có thể thấy chúng. Nếu ở cao hơn là vĩ đại hơn, thế thì các con nhện
kia là kẻ vĩ đại nhất ở đây.
"Thứ hai,
khi ông đón chào ai đó bằng việc chắp tay ông đang biểu lộ trái tim ông. Điều
đó không thể là có điều kiện được, điều đó không thể là điều người khác phải
đáp ứng theo cùng cách đó. Bằng không, trước hết ông phải ra điều kiện là, ‘Tôi
sẽ chắp tay và cúi mình trước ông nếu ông cũng sẵn sàng làm điều đó với tôi.' Đấy
là lỗi của ông - ông đã không đưa ra điều kiện.
"Còn khi
có liên quan tới Acharya Tulsi ông ấy đã tự chứng tỏ bản thân ông ấy đơn giản
là ngu. Không cần phải trả lời những câu hỏi này, ông ấy có thể chỉ cần bước xuống
khỏi bục của mình và ngồi cùng với chúng ta trên sàn. Không cần dùng tới một lời,
hành động của ông ấy đã là câu trả lời. Nhưng ông ấy vẫn ngồi đó gần như chết rồi.
Ông ấy không thể di chuyển được, ông ấy không thể bước xuống khỏi bục, ông ấy
không thể chắp tay để đón chào bạn. Hai kẻ bản ngã này đang đương đầu với nhau
và phá huỷ toàn thể cuộc hội nghị. Cả hai ông có thể giữ yên tĩnh, mười tám người
còn lại có thể tiếp tục cuộc thảo luận."
Đó là sự bắt đầu
của sự đối kháng của Morarji Desai và Acharya Tulsi. Nói ra chân lí trong thế
giới này là tạo ra kẻ thù. Nhưng từ phía tôi, tôi không cảm thấy bất kì đối kháng
nào, tôi đơn giản cảm thấy buồn cho những người này, họ là những người chậm hiểu
- họ không có thông minh nào để hiểu những điều đơn giản.
Thủ lĩnh phong
trào tâm thức Krishna quốc tế gần đây có nói, khi chỉ tới thầy, "Chim và
ong đều có dục, ngay cả sâu bọ cũng có dục. Sau các anh lại cần một người thượng
đế để dạy các anh về điều đó?” Xin thầy bình luận.
Thủ lĩnh phong
trào tâm thức Krishna quốc tế là một kẻ ngốc Mĩ.
Ông ta đang làm
một việc lớn. Và nói tới tôi, ông ta đã nói rằng "Ong có dục, chim có dục
- sao các anh cần một người thượng đế để dạy các anh về dục?"
Một người thượng
đế là cần để dạy các bạn về dục bởi vì các bạn thuộc Phong trào tâm thức
Krishna. Các bạn đã quên mất dục là gì.
Tôi đã nghe nói
rằng khi kẻ ngốc này đi qua, hai cậu nhỏ đang thảo luận khác biệt giữa người
thường và các swamis này. Một cậu nhỏ có lớn hơn một chút nói, "Đợi đã,
khi mày lớn thêm chút nữa thì mày sẽ biết."
Đứa kia nói,
"Cái gì? Tao có thể không hiểu, mày thử giúp tao với."
Nó nói, "Đấy
là khác biệt đơn giản. Những người này dùng cơ quan dục của họ để đi đái còn những
người kia dùng nó cho cả việc khác nữa. Nhưng mày sẽ phải lớn thêm một chút nữa
thì mày sẽ biết."
Thày giáo được cần
để chỉ ra cho những người này rằng cơ quan dục không chỉ được trao cho bạn để
đi đái. Tự nhiên có hi vọng cao hơn!
Một số trí thức phương Tây đã gọi thầy là nhà tâm lí và triết
gia vĩ đại. Thầy có bao giờ hối tiếc về quyết định trở thành người thượng đế
thay vì theo đuổi nghề nghiệp hàn lâm? Sau rốt, ai không muốn trong cùng toán của
Freud hay Carl Jung?
Câu hỏi này có
nhiều câu hỏi trong nó. Tôi sẽ rút ra từng câu hỏi một.
Thứ nhất, các
nhà báo bao giờ cũng chơi trò ác ý. Họ bắt đầu gọi tôi là người thượng đế, tôi
chưa bao giờ gọi mình là người thượng đế cả. Và thế rồi họ hỏi tôi, "Sao
thầy gọi mình là người thượng đế?"
Không có loài
nào trên thế giới mà có thể được gọi là người thượng đế. Chỉ con người là đủ -
không có Thượng đế. Ít nhất tôi không thể tự gọi mình là ‘người thượng đế’ được,
bởi vì tôi không chấp nhận bất kì sự tồn tại nào của thượng đế người sáng tạo
ra thế giới.
Sự tồn tại bao
giờ cũng đã ở đây và bao giờ cũng sẽ ở đây. Nó chưa bao giờ được tạo ra cả. Thượng
đế là một giả thuyết để giải thích điều gì đó. Bởi vì sự tồn tại có đó, câu hỏi
phát sinh trong tâm trí mọi người thông minh, "Ai đã tạo ra nó? Nó thành
hình thế nào?" Từ thời của Rigvedas cho tới ngày nay - vẫn cùng câu hỏi
đó. Và khi những câu hỏi như vậy nảy sinh trong tâm trí chúng trở thành sự hành
hạ, bạn phải tìm ra câu trả lời nào đó. Thế rồi những người khôn ngoan, hay người
không khôn ngoan, bắt đầu cho bạn sự an ủi. Họ nói, "Thượng đế đã tạo ra
thế giới này.” Nhưng điều kì lạ là bạn không hỏi ai tạo ra Thượng đế; câu hỏi vẫn
còn nguyên.
Nếu Thượng đế
có thể có đó mà không có người tạo ra, thế thì tại sao sự tồn tại không thể có
đó mà không có người tạo ra? Tại sao cứ thêm nhiều giả thuyết một cách không cần
thiết - thượng đế A tạo ra thượng đế B, thượng đế B tạo ra thượng đế C... và bạn
sẽ không đi tới cuối cùng, bạn sẽ rơi vào cái vòng hồi qui vô tận, và chung cuộc
bạn sẽ thấy các câu hỏi này vẫn có đó nguyên si như nó trước đây. Toàn thể cuộc
hành trình đã là vô tích sự. Và cho dù bạn chấp nhận, dù chỉ là về giả thuyết,
rằng Thượng đế đã tạo ra thế giới này, điều đó không giải quyết được gì cả, nó
tạo ra cả nghìn câu hỏi nữa. Tại sao ngài đã tạo ra thế giới này?
Tôi sắp đi một
cuộc hành trình và tôi tới ông thợ may của mình và bảo ông ấy , "Ông làm
cho tôi cái áo thụng - tôi chỉ có sáu ngày thôi, tôi sẽ rời thành phố vào ngày
thứ bảy. Trong sáu ngày ông phải làm xong cái áo thụng."
Ông ấy là người
Ki tô giáo. Ông ấy nói, "Nếu ông nói, tôi sẽ làm. Nhưng nhìn quanh thế giới
mà xem. Thượng đế đã tạo ra thế giới trong sáu ngày và nó là một đống lộn xộn
làm sao. Tôi sẽ tạo ra cái áo thụng trong sáu ngày, nhưng về sau đừng bảo tôi rằng
nó chỉ là một đống lộn xộn!" Và bởi vì Thượng đế đã tạo ra đống lộn xộn,
nên từ đó trở đi không ai thấy ngài đâu cả.
Hoặc là ngài
đang ẩn nấp hoặc ngài chạy trốn. Các nhà vật lí nói các ngôi sao đang chạy ra
ra với tốc độ ánh sáng. Có lẽ ngài đang cưỡi lên một ngôi sao lớn nào đó và đang
chạy trốn khỏi đống lộn xộn mà ngài đã tạo ra.
Và tại sao ngài
đã tạo ra nó vào một khoảnh khắc nào đó? Ngài đã làm gì trước đó? Người Ki tô
giáo nói ngài đã tạo ra thế giới này đích xác bốn nghìn lẻ bốn năm trước khi
Jesus Christ được sinh ra. Tôi giả sử nó phải là ngày mồng một tháng giêng. Bạn
không thể tạo ra vào giữa năm được, bởi vì bạn có thể bắt đầu năm mới tại đâu?
Theo người Ki
tô giáo, ngài đã tạo ra thế giới này chỉ mới sáu nghìn năm trước đây. Và ngài
đã làm gì từ vĩnh hằng đã trôi qua trước đó? Chỉ ngồi im lặng, không làm gì
sao? Và đột nhiên, không bởi lí do nào cả - không ai đòi hỏi ngài, không ai yêu
cầu ngài - dường như chỉ là một chút ít lập dị - ngài đã tạo ra thế giới này;
và thế giới này nơi mọi thứ đều sai, dù bạn thu xếp nó như thế nào.
Tôi đã nghe nói
về một người mới mua một thứ đồ chơi cho con mình. Đấy là thứ đồ chơi bạn phải
gắn lại. Nó có nhiều bộ phận, bạn phải gắn những bộ phận đó lại và thế thì nó mới
có hình dạng nào đó. Ông ta gắn nó theo đủ mọi cách có thể. Ông ta là một giáo sư
toán học, nhưng bất kì cái gì ông ta làm bao giờ cũng sai cả.
Ông ta vã mồ
hôi trong trời lạnh. Cuối cùng ông ta tới ông chủ cửa hiệu và ông ta nói,
"Cái gì bị sai. Tôi không thể nào xoay xở được với đồ chơi này. Cả đời tôi
đã dành cho toán học. Dù ông có làm gì, nó bao giờ cũng xoay vòng.” Người chủ bắt
đầu mỉm cười. Ông ta nói, "Nó sẽ quay vòng, dù ông làm bất kì cái
gì." Ông ta nói, "Thôi được, đây là cái loại trò chơi gì vậy?"
Ông chủ tiệm
nói, "Cái này biểu thị cho thế giới. Và tốt hơn cả là cho con ông là học từ
ngay ban đầu rằng bất kì điều gì ông làm, nó sẽ sẽ sai! Trò chơi này đã được tạo
ra bằng thiên tài vĩ đại để dạy cho trẻ con, ‘Đừng lo. Tại đây, mọi thứ đúng
không xảy ra. Không có cách nào để làm mọi thứ theo cách đúng. Mọi cách đều đưa
tới cái gì đó sai. Ông bao giờ cũng kết thúc trong đống lộn xộn! Đây là trò
chơi giáo dục.’"
Giả thuyết về
Thượng đế không có tác dụng. Tôi không có giả thuyết nào về Thượng đế. Với tôi
cuộc sống là thiêng liêng. Với tôi sự tồn tại là mang tính thượng đế, không phải
là Thượng đế. Dùng từ ‘người thượng đế’ cho tôi đơn giản là ngu xuẩn. Nhưng các
nhà báo bắt đầu gọi tôi như thế, và thế rồi bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy tự
gọi mình là người thượng đế?"
Kì cục! Họ bắt
đầu gọi tôi là guru của người giầu và thế rồi họ bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy
tự gọi mình là guru của người giầu?" Họ bắt đầu gọi tôi là guru dục, và thế
rồi họ bắt đầu hỏi tôi, "Sao thầy tự gọi mình là guru dục?"
Tôi chưa bao giờ
tự gọi mình là người thượng đế. Vâng, những người yêu tôi đã gọi tôi là bhagwan,
nhưng bhagwan không có nghĩa là Thượng đế. Chúng ta đã gọi Phật Gautam là Phật
Bhagwan - và ông ấy không tin vào Thượng đế nào.
Cho nên
'Bhagwan' không thể đồng nghĩa với Thượng đế được. 'Bhagwan' đơn giản nghĩa là
người được ân huệ, người đã đạt tới phúc lạc tối thượng, an bình, vui vẻ của bản
thể riêng của người đó. Và tôi nói với bạn rằng tôi là người được ân huệ, nhưng
tôi không phải là người thượng đế. Tôi đơn giản là người đã mãn nguyện.
Thứ hai, câu hỏi
của bạn hỏi, "Tôi được mọi người ca ngợi như nhà tâm lí vĩ đại, như triết
gia. Tại sao tôi bắt đầu tự gọi mình là người thượng đế?"
Một nửa của nó
tôi đã trả lời rồi. Về nửa còn lại, tôi không phải là nhà tâm lí. Nhà tâm lí
tìm tòi trong những sự phức tạp của tâm trí. Tôi là thiền nhân người không bận
tâm tới tâm trí mà đơn giản đi ra ngoài nó.
Phật Gautam
không phải là nhà tâm lí. Thành tựu của ông ấy không phải là tri thức của tâm
trí, mà là kinh nghiệm về vô trí. Nó ở ngoài tâm lí. Tôi đã kinh nghiệm vô trí.
Tôi không thể
cho phép bất kì ai gọi tôi là nhà tâm lí. Tôi không phải vậy. Và tôi không nghĩ
rằng những người là nhà tâm lí lại có cái gì dành cho một người đã biết cái gì
đó bên ngoài tâm trí. Tôi muốn bạn nhớ rằng các nhà tâm lí tự tử gấp hai lần so
với các nghề nghiệp khác, họ phát điên gấp ba lần các nghề nghiệp khác. Tôi
không muốn thuộc vào một nhóm có nửa người điên như vậy.
Bạn hỏi,
"Được xếp vào cùng hạng với các nhà tâm lí lớn như Freud và Jung không tốt
hơn sao?"
Không. Với tôi,
cả hai đều bệnh hoạn bởi vì cả hai đều ở bên dưới im lặng của bản thể bên trong
riêng của họ. Họ vẫn đang vật lộn với những ý nghĩ trống rỗng, lời rỗng tuếch,
không cái gì. Và nếu bạn nhìn vào cuộc sống của họ, bạn có thể thấy điều đó.
Sigmund Freud,
người sáng lập ra phân tâm học, sợ chết thế - tôi cho rằng không ai đang ở đây
sợ nhiều đến vậy. Bạn không thể quan niệm nổi, nhưng ngay cả từ ‘chết’ cũng bị
cấm kị, nó không được thốt ra trong sự hiện diện của ông ấy. Hai lần chuyện xảy
ra là ai đó nhắc tới cái chết và ông ấy ngã nhào từ ghế ngồi và ngất đi, mồm
sùi bọt mép. Sigmund Freud nằm ngay đơ trên đất. Nhà sáng lập vĩ đại của phân
tâm học thậm chí không có đủ dũng cảm để nghe từ ‘chết’. Tôi không muốn được xếp
vào cùng loại với những người này.
Jung bị đuổi
đi; trong phong trào phân tâm ông ấy là người thứ hai chỉ sau Sigmund Freud. Mọi
người cứ tưởng ông ấy sẽ là người kế tục
của Freud. Và ông ấy thông minh sâu sắc. Nhưng ông ấy đã bị đuổi ra khỏi phong
trào bởi vì ông ấy quan tâm tới ma. Sigmund Freud bảo ông ấy, "Vứt điều
này đi. Tôi thậm chí không thể dung thứ được cho những lời này."
Mối quan tâm của
ông ấy là vào điều xảy ra bên kia cái chết, cho nên một cách tự nhiên ông ấy
quan tâm tới cái chết, tới ma, và điều này là lí do cơ bản để ông ấy bị tống
ra. Bạn chắc sẽ nghĩ rằng ông ấy là con người dũng cảm nhưng không phải vậy
đâu. Mọi quan tâm của ông ấy về ma và cái chết và điều xảy ra bên kia cái chết
chỉ là về mặt trí tuệ. Ông ấy muốn tới Ai cập để xem các xác chết cổ được bảo
quản như các xác ướp. Mười hai lần ông ấy đã đặt chỗ và mười hai lần ông ấy huỷ
chỗ. Cả đời ông ấy muốn đi, nhưng khi ngày đi tới, ông trở nên sợ việc thấy xác
chết ba nghìn năm, ông ấy sẽ tìm ra cái cớ nào đó và huỷ vé.
Ông ấy đã tới Ấn
Độ; ông ấy tới các đại học. Ông ấy đã ở đây trong ba tháng và điều đơn giản ngu
xuẩn là đi nói với các nhà phân tâm trong các đại học bởi vì họ đã được dạy ở
phương Tây - họ là con vẹt. Ông ấy đã tới để cố gắng hiểu tâm lí học phương
Đông. Nhiều người đã gợi ý cho ông ấy rằng nếu ông ấy muốn hiểu tâm lí phương Đông
thế thì ông ấy đến sai người rồi; nếu ông ấy muốn hiểu tâm lí phương Đông thế
thì có một một người ở miền Nam, Raman Maharshi. Tới người đó, người thậm chí
đã không nghe tới từ ‘tâm lí'.
Ông ấy đã tới
Madras và thế rồi nỗi sợ túm lấy ông ấy bởi vì ông ấy đã nghe nói rằng những
người này có quyền năng thôi miên, mắt họ thôi miên, cử chỉ của họ là thôi
miên, và đi tới những người này là nguy hiểm, họ có thể cải tâm bạn. Bạn sẽ
quên mất hoàn toàn bạn đã tới để làm gì; họ có thể đặt bạn vào con đường mới. Từ
Madras ông ấy đã quay lại. Chỉ hai giờ nữa là ông ấy sẽ đạt tới Shri Raman
Maharshi - một người đơn giản không có tri thức sách vở, nhưng có việc tự hiểu
mênh mông - người đã đạt tới, người đã về nhà.
Chắc chắn ông ấy
có hào quang. Trong sự hiện diện của ông ấy có từ trường, nhưng nó không làm lạc
đường bạn, nó không dẫn lầm bạn. Đây là cách thức của phương Đông, tìm ra một
người đã tìm thấy bản thân mình và ngồi dưới chân người đó, chỉ trong im lặng.
Không cần nói gì. Im lặng của người đó có thể bắt đầu làm chuyển động trái tim
bạn theo nhịp điệu mới, với âm nhạc mới, điều bạn chưa từng nghe thấy trước đây
- hài hoà mới, đồng bộ mới.
Đầu tiên, điều
đó sẽ xảy ra giữa đệ tử và thầy, và thế rồi nó sẽ bắt đầu xảy ra với cây cối, với
dòng sông, với núi non, với đại dương, với các vì sao, với bản thân sự tồn tại.
Thầy chỉ là cánh cửa. Người Sikhs là đúng khi gọi đền thờ của họ là Gurudwara.
Nó đơn giản nghĩa là ‘thầy là cánh cửa'.
Và khi ông ấy về
tới nhà thì mọi người hỏi tại sao ông ấy đã không gặp người đã thực sự bắt rễ
vào phương Đông. Đi tới các đại học, vốn là sản phẩm phụ của phương Tây, đơn giản
chỉ là việc phí thời gian. Tuy nhiên, ông ấy đã bắt đầu tìm ra những giải
thích, những hợp lí hoá. Và việc hợp lí hoá của ông ấy là, "Tôi đã tránh
việc gặp những người này bởi vì phương Đông có cách thức riêng của nó, phương
Tây có cách thức riêng của nó, và chúng khác nhau, khác đối lập tới mức thật
nguy hiểm mà trộn lẫn chúng."
Đây là an ủi và
hợp lí hoá, nhưng tuyệt đối tinh ranh. Bạn có thể dạy người phương Đông các
cách thức phương Tây. Bản thân ông ấy, trong viện của mình ở Zurich, đã dạy cho
người phương Đông cách thức phương Tây. Điều đó là được, điều đó không quấy rầy
ai cả. Nhưng ông ấy không thể học được từ phương Đông bởi vì điều đó có thể gây
rối loạn. Nếu ông ấy thực sự thành thực, ông ấy nên từ chối người phương Đông
không cho quyền nghiên cứu tại viện của ông ấy. Ông ấy nên bảo họ, "Đây
không phải là cách thức của các ông. Đi tới Shri Raman Maharshi đi. Đừng tới
đây."
Nhưng không, nếu
mọi người từ phương Đông tới, điều đó hoàn toàn được để ước định tâm trí họ, để
lập trình tâm trí họ, để nhồi nhét vào tâm trí họ đủ thứ rác rưởi. Nhưng khi
ông ấy tới đây, ông ấy đã né tránh những người có thể giúp cho ông ấy gạt bỏ đi
mọi rác rưởi, người có thể giúp bạn trở nên tuyệt đối im lặng và an bình, trong
hài hoà sâu sắc với sự tồn tại.
Tôi không thấy
rằng việc hài hoà với sự tồn tại lại có thể gây phiễn nhiễu cho bất kì ai.
Không một thiền nhân nào đã từng tự tử, không một thiền nhân nào đã từng phát điên.
Tâm lí học
phương Tây không có gì để dạy cho phương Đông cả. Nó có mọi thứ cần học từ
phương Đông, bởi vì nó vẫn làm việc trong tâm trí. Toàn thể cách tiếp cận của
chúng ta là siêu việt lên trên tâm trí, không bị bận tâm với nó, bỏ lại nó đằng
sau. Bạn là lớn hơn nó.
Tâm lí học
phương Tây nghĩ tâm trí là tất cả; nó không phải vậy, nó chỉ là bề mặt thôi. Thực
tại bên trong nhất của bạn ở xa xôi với tâm trí bạn. Nó ở gần với sự tồn tại vũ
trụ hơn. Nó ở gần ngôi sao xa nhất hơn là ở gần tâm trí riêng của bạn. Và khoảnh
khắc bạn siêu việt lên trên tâm trí, tâm trí bắt đầu dừng lại theo cách riêng của
nó, bởi vì bạn không còn cung cấp năng lượng cho nó, bạn không còn cho nó chất
nuôi dưỡng. Nó chết đi theo cái chết tự nhiên của nó. Khoảnh khắc lớn lao nhất
trong cuộc sống là khi tâm trí bạn bị siêu việt qua, khi bạn biết bản thân
mình, rằng bạn còn nhiều hơn tâm trí mình - thế thì lo âu, đau khổ, vô nghĩa, tất
cả đều biến mất.
Tôi không phải
là nhà tâm lí. Các nhà tâm lí cần học nhiều và họ có thể học chỉ nếu họ hiểu rằng
có cái gì đó còn nhiều hơn tâm lí trong con người - rằng người đó có linh hồn.
Và tôi không phải
là triết gia nữa. Một trong những điều không may nhất là khái niệm phương Đông
về darshan đã bị dịch sang tiếng Anh thành triết lí. Ngay cả những người như Tiến
sĩ Radhakrishnan... nhưng đây tất cả đều là các giáo sư, họ không phải là nhà
huyền môn. Họ đã đồng ý với việc dịch này - tôi không đồng ý. Bởi vì triết lí
có nghĩa là ‘suy nghĩ về chân lí’, và một điều không thể có được trong thế giới
này là suy nghĩ về chân lí. Điều đó giống như người mù nghĩ về ánh sáng. Người
đó sẽ nghĩ thế nào? Và bất kì điều gì người đó nghĩ, thậm chí sẽ không lại gần
với kinh nghiệm về ánh sáng. Ánh sáng hoặc có thể được thấy hoặc không được thấy,
nhưng bạn không thể nghĩ về nó được.
Bạn không thể
nghĩ về tình yêu được. Hoặc là bạn có thể yêu, hoặc bạn không thể yêu, nhưng bạn
không thể nghĩ về nó được.
Tôi không phải
là triết gia, tôi là nhà huyền môn. Tôi không nghĩ về chân lí, tôi đã thấy nó.
Và điều kì lạ nhất về chân lí là ở chỗ việc thấy nó là phải là nó. Bạn không thể
thấy nó như một đối thể, bạn chỉ có thế thấy nó như bản thân bạn. Khoảnh khắc bạn
kinh nghiệm bản thân mình - khi người quan sát và vật được quan sát là một, khi
người thấy và cái thấy là một, khi cái được kinh nghiệm và người kinh nghiệm là
một - chân lí hiển lộ.
Triết lí phương
Tây đã là kinh nghiệm lâu dài nhất về vô tích sự. Không một triết gia phương
Tây nào - Plato, Aristotle, Bacon, Kant, Hegel, Russell - không một triết gia
phương Tây nào đã từng có một thoáng nhìn.
Toàn thể câu
chuyện của họ được viết trong Panchtantra đã năm nghìn tuổi rồi. Trong một
làng, một con voi lần đầu tiên tới và làng có năm người mù. Họ rất kích động,
còn bị kích động hơn những người có mắt, cũng là tự nhiên, bởi vì những người
có mắt có thể thấy, thế rồi kích động qua đi. Năm người mù này bị kích động thế
để tìm ra cái gì đã tới.
Họ chạm vào con
voi, ai đó chạm vào chân và nói, "Trời! Voi không là gì ngoài cây cột."
Và ai đó chạm
vào tai voi và nói, "Anh ngốc! Anh phải chạm vào cột nào đó rồi. Voi không
phải là cột nhà, nó giống như cái quạt lớn dùng cho vua," vân vân và vân
vân. Năm người cãi nhau, và một người có mắt quan sát thấy và cười to.
Toàn thể triết
học phương Tây được viết ra trong câu chuyện đó. Tất cả những người mù này đều
sờ và đi tới kết luận và cãi nhau với người khác. Và triết lí phương Tây không
là gì khác ngoài biện luận - không phải là việc nhận ra. Do đó các triết gia
phương Tây sẽ vẫn còn là người thường. Ông ta sẽ có các ý niệm lớn lao, ông ta
sẽ làm ra các hệ thống lớn, nhưng cá tính riêng của ông ta, tính cá nhân riêng
của ông ta, sẽ vẫn còn rất bình thường. Ông ta không thể nào trở thành một Phật
Gautam, ông ta không thể nào trở thành một Lão Tử, ông ta không thể nào trở
thành một Trang Tử, bởi vì họ không phải là các triết gia; những người này là
những người đã cố gắng để nhìn vào bên trong, để đạt tới chính trung tâm của bản
thể của mình.
Và trung tâm của
bản thể của tôi cũng là trung tâm của mọi người, nó là trung tâm của toàn thể sự
tồn tại. Do đó nếu tôi có thể biết bản thân tôi, tôi đã biết được tất cả.
Tôi không muốn
bị phân loại thành triết gia. Không phải là suy nghĩ của tôi về chân lí mà tôi
chia sẻ với mọi người của tôi đâu, nó là kinh nghiệm của tôi mà tôi đang chia sẻ
đấy. Nó không phải là ý niệm của tôi - nó là hương vị của tôi, nó là nhịp đập
trái tim của tôi. Nếu bạn muốn gọi tôi là cái gì thì bạn có thể gọi tôi là nhà
huyền môn, nhưng xin bỏ cái từ xấu xí người thượng đế kia đi.
Không giống như
các bậc thầy tâm linh của quá khứ, những người dứt khoát trong lời nói của mình
và hiếm khi cười, thầy bao giờ cũng thể hiện một cảm giác khôi hài lớn. Xin thầy
bình luận. Và xin thầy kể cho tôi chuyện đùa thầy ưa thích!
Cảm giác khôi
hài là đóng góp cơ bản của tôi cho tính tôn giáo. Tất cả những người tôn giáo đều
đã buồn rầu và trịnh trọng và ốm yếu. Bạn không thể sống với họ được. Đó là lí
do tại sao mọi người đơn giản tới chạm chân họ rồi chạy mất, bởi vì họ chán thế.
Chỉ ngồi bên họ một chút thôi, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy chán theo.
Tôi bao giờ
cũng nghĩ rằng nếu có cõi trời nơi các thánh nhân và hiền giả và mahatmas tất cả
đã tới, thế thì tôi không muốn tới đó đâu, bởi vì đấy sẽ là chỗ buồn nhất trong
toàn thể sự tồn tại. Và mọi người sẽ cố gắng buồn hơn người khác.
Cảm giác khôi
hài là cái gì đó đặc biệt nhân bản. Trâu không cười, chúng tất cả đều là các
thánh. Lừa không kể chuyện đùa, chúng tất cả đều là các mahatmas. Trong các kiếp
sống quá khứ chúng đã là các thánh nhân và mahatmas. Đó là lí do tại sao chúng
đã đã đạt tới địa vị lớn vậy.
Đây là những
người sẽ đi lên cõi trời. Nếu sau cái chết bạn được hỏi về nơi mình muốn tới,
xin nhớ nói, "Bất kì chỗ nào ông đem tôi đi, cứ đem đi - nhưng tôi không
muốn tới nơi các thánh nhân tới!" Ngay cả địa ngục sẽ tốt hơn. Bạn sẽ tìm
thấy những người tốt hơn, đẹp hơn, lí thú hơn.
Bây giờ đến
chuyện đùa. Và bởi vì nó được nhà báo yêu cầu nên nó sẽ là về ba nhà báo. Cả ba
người này đều đã về hưu: một người tám mươi, người kia tám nhăm và người thứ ba
chín mươi. Thói quen thông thường của họ là đi dạo buổi tối, ngồi trong công
viên và thảo luận về những ngày xưa vàng son.
Một hôm chuyện
xảy ra là nhà báo thứ nhất, người tám mươi tuổi, nói,"Tôi cảm thấy xấu hổ
quá, chuyện thật đau lòng. Nó giống như một vết thương vậy." Hai người kia
nói, "Chuyện gì vậy? Ai làm ông đau lòng?" Ông ta nói, "Không ai
làm tôi đau lòng cả. Tôi vừa mới bị bắt quả tang."
Hai người kia
nói, "Ông lại làm bí ẩn về nó rồi. Cứ đơn giản kể cho chúng tôi toàn thể mọi
sự đi! Chuyện gì xảy ra?" Ông ta nói, "Tôi bị mẹ tôi bắt quả
tang." Họ nói, "Về cái gì?"
Ông ta nói,
"Bây giờ nói điều ấy thế nào nhỉ? Tôi đã nhòm qua lỗ khoá khi một người
đàn bà đẹp đang tắm và mẹ tôi đã bắt được tôi. Tôi thấy xấu hổ quá."
Hai ông bạn già
kia cười phá lên. Một người nói, "Này con, đừng có làm phiền phức lên,
chuyện ấy xảy ra cho mọi người. Trong thời trẻ con ai mà không nhìn qua lỗ
khoá, nhìn vào buồng tắm, và còn cái gì khác để làm đâu? Lỗ khoá làm ra là để
dành cho việc đó. Đàn bà đẹp được làm ra cho việc đó. Đừng thấy xấu hổ - chúng
ta tất cả đều bị bắt nhưng điều đó không có nghĩa là..."
Người này nói,
"Các ông không hiểu gì cả. Các ông cứ nói với tôi, "Đừng cảm thấy xấu
hổ, đừng cảm thấy xấu hổ." Vấn đề không phải là thời trẻ con nữa! Nó xảy
ra hôm nay!" Thế là có im lặng. Điều này thành quá thể, nếu nó xảy ra hôm
nay.
Người thứ hai
nói, "Ừ, chúng tôi có thể hiểu được. Tôi sẽ kể cho các ông câu chuyện của
tôi, sẽ đem lại cho các ông sự an ủi. Bây giờ là ngày thứ ba tôi đã không làm
tình với vợ. Bà ấy chuyên chê bai đến mức bất kì khi nào tôi định nói yêu thì
bà ấy ngay lập tức quay sang phía bên kia và nói, 'Tôi nhức đầu, đủ rồi. Bây giờ
không thêm nữa.'"
Bây giờ hai người
kia cùng cười. Người thứ ba, người già nhất, nói, "Các ông có biết yêu của
ông ấy không? Trước hết ông nói xem ông ngụ ý yêu là gì!"
Ông ta nói,
"Đấy là quá trình rất đơn giản. Mọi đêm tôi cầm tay bà ấy trong tay tôi rồi
bóp ba lần. Thế rồi tôi ngủ say và ngáy. Nhưng trong ba ngày cái bà hay chê bai
ấy lại không cho tôi làm tình. Tôi có thể hiểu các ông cảm thấy xấu hổ, đau
lòng. Tôi cảm thấy đau lòng. Ngay vợ riêng của tôi, vào độ tuổi này, cũng phản
bội tôi!"
Người thứ ba
nói, "Điều xảy ra cho tôi sẽ làm cho các ông quên ngay tất cả mọi rắc rối
của mình. Sáng nay khi tôi bắt đầu dàn xếp để làm tình với vợ tôi thì bà ấy
nói, 'Ông làm gì đấy?'
"Tôi nói,
'Tôi làm gì à? Tôi chỉ làm điều đáng phải làm. Tôi định làm tình.'
"Vợ tôi
nói, 'Ông ngu lắm! Đây là lần thứ tư trong đêm rồi! Ông không ngủ mà ông cũng
không để tôi ngủ! Yêu, yêu, yêu... không có giới hạn nào cho nó cả.'
"Tôi nói,
'Trời, điều đó có nghĩa là trí nhớ của tôi mất rồi. Tôi đã hoàn toàn quên mất rằng
tôi đã làm tình ba lần.'
"Và các
ông đang nói về rắc rối của các ông. Nghĩ tới rắc rối của tôi đây này, trí nhớ
của tôi mất rồi. Ít nhất điều tốt là tôi vẫn có thể phân biệt được ngày và
đêm."
Cho nên mọi người
đều có vấn đề của mình.
Nhìn vào vấn đề
với khôi hài là tính người. Ngoại trừ con người không con vật nào có thể cười.
Và các tôn giáo của bạn đã ngăn cản bạn không cho cười.
Trong các trường
học họ dạy về ba R; tôi dạy về ba L... Life, Love, Laughter - Cuộc sống, Tình
yêu, Tiếng cười.
Xem tiếp – Quay về Mục lục