Osho
- Tự truyện (Cuộc đời Luận sư Osho)
Phần
I
Chương 5: Mài sắc thanh gươm
Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã ưa thích kể những câu chuyện, thật
và bịa. Tôi không hề ý thức rằng, việc kể chuyện này sẽ cho tôi một khả năng diễn
đạt khúc chiết và cái đó sẽ là một trợ giúp rất lớn cho tôi sau khi chứng ngộ.
Nhiều người trở nên chứng ngộ, nhưng không phải tất cả họ đều
trở thành đạo sư – vì lý do đơn giản, là
họ không có "biện tài", họ không thể diễn đạt cái mà họ cảm thấy, không thể truyền đạt cái mà họ đã thể nghiệm.
Bây giờ, với tôi, chỉ là sự tình cờ ngẫu nhiên mà tôi trở thành đạo sư, và tôi
nghĩ, với một số ít người mà đã trở thành đạo sư thì hẳn là cũng vậy – bởi vì
không hề có một khóa huấn luyện nào dành cho việc đó. Và tôi chỉ dám chắc chắn
về chính mình.
Khi sự chứng ngộ đến, trong 7 ngày đầu tiên tôi không thể
nói ra lời; sự im lặng thì quá sâu xa, đến nỗi ngay cả ý tưởng nói một cái gì về
nó đã không khởi lên. Nhưng sau 7 ngày, một cách chậm rãi, khi tôi trở nên quen
với sự im lặng, quen với niềm phúc lạc to lớn, thì ước vọng muốn chia sẻ nó – một
khao khát lớn lao, muốn chia sẻ nó với những người mà tôi mến yêu – là rất tự
nhiên.
Tôi bắt đầu nói với những người mà tôi có quan hệ trong một
cách nào đó, những bạn hữu. Trước đây, tôi vẫn thường nói chuyện với những người
này trong nhiều năm, nói về đủ thứ chuyện. Tôi đã chỉ ưa thích một loại
"bài tập", và đó là trau dồi kỹ năng nói chuyện, cho nên, không khó khăn
mấy khi bắt đầu nói về sự chứng ngộ – mặc dù phải mất nhiều năm để "tinh
luyện", đưa vào lời nói một cái gì đó về sự im lặng của tôi, một cái gì đó
về niềm vui của tôi.
1953 – 1956, SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Những học giả thì cực kỳ "sở trường" trong việc hủy
diệt tất cả những gì đẹp đẽ bằng những bình luận của họ, những thuyết minh của
họ, cái mệnh danh là sự học vấn của họ. Họ làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, đến
nỗi với họ, ngay cả thi ca cũng trở nên phi thi ca. Chính tôi không bao giờ dự
bất cứ giờ học thi ca nào tại trường đại học. Tôi cứ thường xuyên bị ông khoa
trưởng gọi lên, và ông nói, "Anh dự những giờ học khác, tại sao anh không
đến dự những giờ học thi ca?"
Tôi nói, "Bởi vì em muốn giữ cho cái lòng yêu thích của
em đối với thi ca được sống. Em yêu thi ca, đó là lý do tại sao. Và em biết một
cách hoàn toàn rõ, rằng những giáo sư của đại học này thì tuyệt đối phi thi ca;
họ chưa bao giờ biết chút thi ca nào trong đời họ. Em biết họ một cách hoàn
toàn rõ. Sáng nào người đàn ông dạy thi ca tại trường đại học cũng đi bộ với
em. Em chưa bao giờ thấy ông nhìn cây cỏ, lắng nghe tiếng chim, ngắm bình minh
đẹp."
Và ở trường đại học mà tôi đang theo học, bình minh và hoàng
hôn là một cái gì đó vô cùng đẹp. Trường đại học nằm trên một ngọn đồi, vây
quanh bởi những cái gò nhỏ xung quanh. Tôi đã du hành khắp Ấn Độ, và tôi chưa
bao giờ thấy ở đâu có bình minh và hoàng hôn đẹp như vậy. Vì lý do huyền bí và ẩn
mật nào đó, đại học Sagar có một địa thế đặc biệt, nơi mà những đám mây trở nên
quá nhiều màu sắc vào buổi bình minh và hoàng hôn, đến mức ngay cả một người mù
cũng sẽ nhận biết, rằng một cái gì đó hết sức đẹp đang xảy ra.
Nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông giáo sư đang dạy thi ca tại
trường đại học nhìn hoàng hôn, hay dừng lại thậm chí trong một khoảnh khắc. Và
bất cứ khi nào ông thấy tôi ngắm bình minh hay hoàng hôn, hay cây cỏ, hay chim
chóc, ông thường hỏi tôi, "Tại sao anh lại ngồi ở đây? Anh đến để đi bộ buổi
sáng cơ mà – hãy tập thể dục đi."
Tôi nói, "Đối với em, đây không phải là một bài tập thể
dục. Thầy đang tập thể dục; với em, nó là một chuyện tình."
Và khi trời mưa, ông thường không bao giờ ra ngoài. Bất cứ
khi nào trời mưa, tôi thường đến gõ cửa phòng ông và nói, "Ta đi
nào!"
Ông nói, "Nhưng trời đang mưa mà!"
Tôi nói, "Đây là thời điểm đẹp nhất để đi bộ, bởi vì những
đường phố thì tuyệt đối trống không. Và đi bộ mà không có ô trong khi trời mưa,
thì quá đẹp, quá thơ mộng!"
Ông nghĩ là tôi điên – nhưng một người chưa bao giờ đi dưới
mưa, dưới cây, thì không thể nào hiểu được thi ca. Tôi nói với ông trưởng khoa,
"Người đàn ông này không có hồn thơ, ông ta hủy diệt mọi thứ. Ông ta quá
"học giả" mà thi ca là một hiện tượng quá "phi học giả", đến
nỗi không có cái mảnh đất chung nào giữa ông ta và thi ca."
Những trường đại học hủy diệt cái mối quan tâm và lòng yêu
thi ca của người ta. Chúng hủy diệt toàn bộ ý tưởng của bạn về ý nghĩa cuộc đời
– sống thế nào cho ra sống; chúng càng ngày càng biến nó thành một thứ hàng
hóa. Chúng dạy bạn làm thế nào để kiếm nhiều tiền hơn, nhưng chúng không dạy bạn
làm thế nào để sống sâu sắc, làm thế nào để sống một cách toàn bộ – và đây là
nơi mà bạn có thể có được những thoáng nhìn. Đây là nơi có những cánh cửa nhỏ mở
vào cái tối hậu. Bạn được nói cho biết giá trị của tiền bạc, nhưng không được
nói cho biết giá trị của một bông hồng. Bạn được dạy cho biết giá trị của một vị
thủ tướng hay tổng thống, nhưng không được bảo cho biết giá trị của một nhà
thơ, một họa sĩ, một ca sĩ, một vũ công. Người ta nghĩ rằng, những cái đó là
dành cho những người điên.
Sau khi nhận bằng BA, tôi rời Jabalpur, bởi vì một trong các
vị giáo sư tại đại học Sagar, S. S Roy, viết thư, gọi điện cho tôi để nói,
"Sau khi đỗ BA, anh hãy vào đại học này, để học chương trình sau đại học."
Từ đại học Jabalpur đến đại học Sagar, cũng không xa mấy –
100 dặm. Nhưng đại học Sagar, trên nhiều phương diện, thì rất độc đáo, có một
không hai. Nó là một đại học nhỏ so với đại học Benares hay Aligarh, là những đại
học có 10 – 12 ngàn sinh viên. Chúng
cũng giống y như đại học Oxford hay Cambridge – những đại học lớn, những tên tuổi
lớn. Đại học Sagar chỉ có 1000 sinh viên, và gần 300 giáo sư; do vậy, cứ 3 sinh
viên, thì có 1 giáo sư. Nó là một nơi hiếm hoi; có lẽ không nơi nào trên thế giới
mà bạn có thể tìm thấy một đại học khác, nơi mà có 1 giáo sư cho 3 sinh viên.
Người đã sáng lập trường đại học này quen biết tất cả những
giáo sư giỏi nhất khắp thế giới. Sagar là nơi sinh của ông; Tiến sĩ Harisingh
Gaur là tên ông. Ông là một thẩm quyền nổi tiếng thế giới về luật học, và ông
kiếm được quá nhiều tiền – và không bao giờ bố thí một đồng pisa nào cho hành
khất, cho bất cứ tổ chức nào, cho hội từ thiện nào. Ông được biết đến như là
người hà tiện nhất trong toàn bộ nước Ấn Độ. Và rồi ông sáng lập trường đại học
này, và hiến tặng toàn bộ tiền dành dụm suốt đời của mình. Nó lên tới hằng triệu
Mỹ kim.
Ông nói với tôi, "Đó là lý do tại sao tôi là một người
hà tiện; nếu không thế, thì không có cách nào khác – tôi là một người nghèo,
tôi xuất thân là một người nghèo. Nếu tôi làm việc từ thiện, và tài trợ cho bệnh
viện này hay người hành khất này, và kẻ mồ côi nọ, thì trường đại học này đã
không thể nào hiện hữu." Suốt đời mình, ông chỉ cưu mang một ý tưởng, rằng
nơi sinh của ông phải có một trong những trường đại học tốt nhất trên thế giới.
Và chắc chắn là ông đã tạo ra một trong những trường đại học tốt nhất. Trong
thuở sinh thời, ông xoay xở thành công trong việc đưa những giáo sư từ khắp thế
giới về đó. Ông trả lương gấp đôi, gấp ba, bao nhiêu tùy ở họ – và không có
công việc, bởi vì chỉ có 1000 sinh viên. Và ông mở tất cả mọi phân khoa – không
có sinh viên, nhưng với một ban giảng huấn đầy đủ: trưởng khoa, giáo sư phụ giảng,
giảng viên. Ông thường nói, "Đừng lo lắng. Trước hết, cứ tạo ra trường đại
học – và làm cho nó trở thành tốt nhất. Sinh viên sẽ đến, sẽ phải đến."
Do vậy, những vị giáo sư và những trưởng khoa đều đang tìm
kiếm những sinh viên giỏi nhất.
Và vì lý do nào đó vị giáo sư này, SS Roy, là trưởng khoa
triết, đã để mắt đến tôi.
Hằng năm, tôi thường đến đại học Sagar để dự cuộc thi hùng
biện liên đại học. Trong 4 năm, tôi đều đoạt giải, và trong 4 năm, trên cương vị
giám khảo, ông lắng nghe tôi nói – ông là một trong những vị giám khảo. Năm thứ
tư, ông mời tôi về nhà ông, và nói, "Hãy nghe đây, tôi đợi anh suốt năm.
Tôi biết rằng, sau một năm, khi cuộc thi hùng biện liên đại học kế tiếp được tổ
chức, thế nào anh cũng sẽ có mặt ở đó.
"Cái cách mà anh trình bày những luận cứ của mình thật
kỳ lạ. Đôi khi nó quá kỳ khôi, đến nỗi tôi tự hỏi… làm thế nào anh có thể nhìn
từ góc độ này? Chính tôi đã từng suy nghĩ về một vài vấn đề, nhưng tôi không
bao giờ nhìn từ khía cạnh đó. Tôi có ấn tượng rằng anh tiếp tục vứt bỏ đi bất cứ
khía cạnh nào mà có thể xuất hiện với một tâm trí bình thường, và anh chỉ chọn
cái khía cạnh mà có lẽ không một ai nghĩ tới.
"Trong 4 năm, anh đã đoạt giải, vì lý do đơn giản là
cái luận cứ của anh thì độc đáo, và không có ai sẵn sàng trả lời nó. Thậm chí,
họ chưa hề nghĩ về nó, cho nên họ đơn giản bị sốc. Những đối thủ của anh – anh
làm cho họ bé lại một cách thê thảm, người ta cảm thấy thương hại họ, nhưng
chúng tôi có thể làm gì được? Và tôi vẫn cho anh 99 điểm trên 100. Tôi muốn cho
anh điểm trên 100, nhưng ngay cả 99… Người ta đã cho rằng tôi thiên vị. Họ nói
rằng, số điểm này là quá nhiều, bởi vì không có ai vượt quá 50.
"Tôi đã gọi anh tới nhà dùng bữa tối, để mời anh rời đại
học Jabalpur và đến đây. Bây giờ, đây là năm thứ tư của anh, anh sẽ hoàn tất
chương trình cử nhân khi anh tốt nghiệp. Để học tiếp chương trình sau đại học,
anh sẽ đến đây. Tôi không thể thiếu anh với tư cách là sinh viên của tôi; nếu
anh không đến đây, thì tôi sẽ đến dạy tại đại học Jabalpur."
Và ông là một thẩm quyền nổi tiếng; nếu ông muốn đến, trường
đại học Jabalpur hẳn đã vô cùng vui sướng tiếp nhận ông vào chức vụ trưởng
khoa. Tôi nói, "Không, không cần phải rắc rối như thế. Em có thể đến đây,
và em yêu nơi này." Nó có lẽ là trường đại học có địa thế đẹp nhất trên thế
giới, trên những ngọn đồi gần một cái hồ hết sức mênh mông. Nó quá yên tĩnh –
những cây rất cao, rất cổ xưa – đến nỗi chỉ cần đưa sinh viên đến đó thôi, cũng
đủ cho việc giáo dục rồi.
Và Tiến sĩ Harisingh Gaur hẳn là một người mê sách vĩ đại.
Ông hiến tặng toàn bộ thư viện của mình, và ông xoay xở để kiếm được càng nhiều
sách càng tốt, từ mọi xó xỉnh của thế giới. Nỗ lực của một người đơn lẻ… thật
là hiếm hoi; ông tạo ra "Oxford",
hoàn toàn một mình, đơn thương độc mã. Oxford được tạo ra trong hơn một
ngàn năm; hằng ngàn người đã từng làm việc. Công trình của người đàn ông này thực
sự là một tác phẩm nghệ thuật. Hoàn toàn đơn độc, với tiền túi của mình, ông
đem chính bản thân mình ra đặt cược.
Cho nên tôi yêu nơi này. Tôi nói, "Thầy đừng lo lắng,
em sẽ đến – nhưng Thầy chỉ mới thấy em trong những cuộc thi. Thầy không biết
nhiều về em; em có thể gây rắc rối cho Thầy, em là một kẻ gây phiền hà. Em muốn
Thầy biết mọi thứ trước khi Thầy quyết định."
Giáo sư SS Roy nói, "Tôi không muốn biết bất cứ cái gì
về anh. Một chút ít mà tôi đã biết, chỉ bằng cách nhìn thấy anh, đôi mắt anh,
cách nói của anh, cách anh tiếp cận thực tại, là đủ. Và đừng cố hù dọa tôi về sự
phiền hà rắc rối – anh có thể làm bất cứ cái gì mà anh muốn."
Ngày đầu tiên tôi đến dự giờ học của ông, giáo sư Roy đang
giảng về khái niệm Cái Tuyệt Đối. Ông là một thẩm quyền về Bradley và Shankara.
Cả hai đều tin vào Cái Tuyệt Đối – đó là tên gọi mà họ dành cho Thượng đế.
Tôi hỏi ông một điều, mà đã khiến cho ông đối xử rất thâm
tình với tôi, và ông mở trọn vẹn trái tim mình ra với tôi trong mọi cách có thể
được. Tôi chỉ hỏi,"Cái Tuyệt đối của Thầy có hoàn hảo không? Nó đã đến một
chỗ ngừng hoàn toàn, hay nó vẫn đang phát triển? Nếu nó còn đang phát triển,
thì nó không tuyệt đối, nó bất toàn – chỉ khi đó nó mới phát triển được. Nếu có
thể thêm vào nó một cái gì đó – thêm một vài cành, thêm một vài bông hoa – thì
nó sống. Nếu nó là hoàn chỉnh, vẹn toàn – đó là nghĩa của từ tuyệt đối – thì, sẽ
không có khả tính nào cho sự tăng trưởng, thì nó chết." Cho nên tôi hỏi
ông, "Xin hãy rõ ràng, bởi vì, với Bradley và Shankara, Cái Tuyệt Đối đại
diện cho Thượng đế; đó là tên gọi triết học của họ dành cho Thượng đế. Vậy Thượng
đế của Thầy còn sống hay đã chết? Thầy phải trả lời câu hỏi này."
Ông thực sự là một người trung thực. Ông nói, "Xin cho
tôi thời gian để suy nghĩ." Ông có một học vị tiến sĩ về Bradley từ
Oxford, một học vị tiến sĩ nữa về Shankara từ Benares, và người ta nghĩ rằng
ông là thẩm quyền lớn nhất về hai triết gia này, bởi vì ông đã cố chứng minh rằng
Bradley, từ phương Tây, và Shankara, từ phương Đông, đã đi tới cùng một kết luận
như nhau. Ông nói, "Xin cho tôi thời gian để suy nghĩ."
Tôi nói, "Suốt đời, Thầy đã viết về Bradley và
Shankara, và về Cái Tuyệt Đối – em đã đọc những cuốn sách của Thầy, em đã đọc
luận án chưa xuất bản của Thầy. Và Thầy đã giảng dạy suốt đời mình – thế mà
chưa ai từng hỏi Thầy một câu hỏi đơn giản như thế hay sao?"
Ông nói, "Chưa ai từng hỏi tôi; không chỉ thế, ngay cả
chính tôi cũng chưa bao giờ nghĩ về nó – nhưng chắc chắn, nếu một cái gì đó là
hoàn hảo, thì nó phải chết. Bất cứ cái gì còn sống, thì nó phải bất toàn. Ý tưởng
này chưa bao giờ xuất hiện ra với tôi. Do vậy, hãy cho tôi thời gian suy
nghĩ."
Tôi nói, "Thầy có thể để ra bao nhiêu thời gian tùy
ý. Hằng ngày em sẽ đến và hỏi cùng một
câu hỏi." Và nó cứ tiếp tục trong 5 – 6 ngày. Mỗi ngày, tôi sẽ bước vào lớp
và ông thường đến, run rẩy, và tôi thường đứng lên và nói, "Câu hỏi của
em."
Ông nói, “Xin tha thứ cho tôi, tôi không thể quyết định được.
Với cả hai phía, đều có một khó khăn. Tôi không thể nói Thượng đế là bất toàn;
tôi cũng không thể nói rằng Thượng đế chết. Nhưng mà anh đã chinh phục trái tim
tôi.”
Ông dời những vật dụng của tôi từ nhà trọ đến nhà ông. Ông
nói, "Anh không thể sống tại nhà trọ lâu hơn nữa. Anh phải đến sống với
tôi và gia đình tôi. Tôi có nhiều cái phải học từ anh – bởi vì một câu hỏi đơn
giản như thế chưa từng hiện ra với tôi.Tất cả những học vị của tôi đã bị hủy bỏ."
Tôi sống với ông gần 6 tháng trước khi ông chuyển sang một đại
học khác. Ông muốn tôi di chuyển với ông, nhưng ông phó viện trưởng của tôi thì
không chịu. Ông ta nói, "Giáo sư
Roy, ông có thể đi. Các vị giáo sư có thể đến và đi, nhưng chúng tôi có thể sẽ
không tìm thấy một sinh viên như thế một lần nữa. Cho nên, tôi sẽ không cấp chứng
chỉ cho anh ta và tôi sẽ không cho phép anh ta rời trường đại học. Và tôi sẽ viết
thư cho đại học của ông, bảo họ rằng không được nhận sinh viên của tôi vào học ở
đó!"
Nhưng giáo sư Roy tiếp tục yêu mến tôi. Đó là một hiện tượng
hiếm hoi. Ông thường đến hầu như hằng tháng, để thăm tôi, từ đại học của ông,
cách xa gần 200 dặm. Nhưng ông thường đến ít nhất một lần một tháng, chỉ để
thăm tôi, chỉ để ngồi với tôi. Và ông nói, "Bây giờ tôi đang kiếm được một
số lương khá hơn, và ở đó mọi sự thoải mái hơn, nhưng tôi nhớ anh. Lớp học có vẻ
như chết. Không ai hỏi những câu hỏi như anh, những câu hỏi mà không thể nào trả
lời."
Và tôi đã nói với ông, "Đây là một thỏa thuận giữa em
và Thầy, rằng em gọi một câu hỏi là câu hỏi, chỉ khi nào nó không thể được trả
lời. Nếu nó có thể được trả lời, thì nó là loại câu hỏi gì chứ?"
Tôi thường đi bộ, mang sandal Ấn làm bằng gỗ. Nó đã được
dùng bởi những sannyasin trong nhiều thế kỷ, hầu như 10 ngàn năm, hay có lẽ lâu
hơn. Một đôi sandal gỗ… bởi vì nó tránh bất cứ loại da thuộc nào, phải đến từ một
con vật mà có thể đã bị giết, và bị giết cho một mục đích duy nhất này – và da
thuộc tốt nhất đến từ những con vật còn rất non. Do vậy, những sannyasin đã
tránh điều đó và họ dùng sandal gỗ. Nhưng nó gây ra quá nhiều tiếng ồn khi bước
đi, bạn có thể nghe âm thanh của nó – dù cách xa một dặm. Và khi đi bộ trên một
con đường bằng xi-măng, hay trên veranda của đại học… thì cả đại học đều biết.
Toàn thể trường đại học thường biết là tôi đang đến hay đang đi; không cần phải
thấy tôi, chỉ cần nghe tiếng sandal là đủ.
Vào ngày đầu tiên khi tôi bước vào lớp triết của trường đại
học, tôi gặp Tiến sĩ Saxena lần đầu tiên. Tôi thực sự dành lòng yêu mến và kính
trọng đặc biệt cho một vài vị giáo sư. Đây là hai vị giáo sư mà tôi yêu mến nhất
– giáo sư S.K. Saxena và giáo sư S.S. Roy – và vì lý do đơn giản, là họ không đối
xử với tôi như là một sinh viên.
Khi tôi bước vào lớp của tiến sĩ Saxena ngày đều tiên, với
đôi sandal gỗ, ông nom có vẻ hơi bối rối một chút. Ông nhìn vào đôi sandal của
tôi và hỏi tôi, "Tại sao anh dùng sandal gỗ? Nó gây quá nhiều tiếng ồn."
Tôi nói, "Chỉ để làm cho ý thức của em được tỉnh
giác."
Ông nói, "Ý thức? Có phải là anh đang cố giữ cho ý thức
anh tỉnh giác trong nhiều cách khác nữa?"
Tôi nói, "24 giờ một ngày em đang cố làm cái đó, trong
mọi cách có thể được: đi, ngồi, ăn, và ngay cả ngủ. Và Thầy có thể tin hay
không, rằng chỉ mới gần đây, em đã thành công trong việc nhận biết và tỉnh giác
ngay cả trong giấc ngủ."
Ông nói, "Giờ học được bãi bỏ – anh hãy đi với tôi đến
văn phòng." Cả lớp nghĩ rằng tôi đã gây rắc rối cho chính mình vào ngày đầu
tiên. Ông đưa tôi vào phòng làm việc của mình và lấy từ kệ sách cái luận án tiến
sĩ của ông, mà ông đã viết cách đó ba năm. Nó nói về ý thức. Ông nói, "Cầm
lấy nó. Nó đã được xuất bản bằng tiếng Anh, và rất nhiều người tại Ấn đã xin
phép dịch sang tiếng Hindi – những học giả lớn, rất thông thạo tiếng Anh và tiếng
Hindi. Nhưng tôi đã không cho phép một
ai, bởi vì vấn đề không phải là việc bạn có tinh thông về ngôn ngữ hay không;
tôi đang tìm một người biết ý thức là cái gì – và tôi có thể thấy trong mắt
anh, trên khuôn mặt anh, qua cách mà anh trả lời… anh phải dịch cuốn sách
này."
Tôi nói, "Đây là điều khó, bởi vì em không thạo tiếng
Anh, em cũng không thạo tiếng Hindi. Hindi là tiếng mẹ đẻ của em, nhưng em chỉ
biết ở mức độ như mọi người biết tiếng mẹ đẻ của mình. Em tin vào định nghĩa của
"tiếng mẹ đẻ". Tại sao mọi ngôn ngữ được gọi là "tiếng mẹ đẻ?"
Bởi vì người mẹ nói và người cha lắng nghe – và đó là cách mà con cái học. Đó
là cách mà em đã học."
"Cha em là một người ít nói; mẹ em nói và ông lắng nghe
– và em học thứ ngôn ngữ đó. Nó chỉ đơn giản là tiếng mẹ đẻ, em không biết nhiều.
Hindi chưa bao giờ là môn học của em. Tiếng Anh, thì em chỉ biết chút ít, và
cái đó chỉ vừa đủ cho những cái mệnh danh là những kỳ thi của quý vị, nhưng để
dịch một cuốn sách mà nó lại là một luận án tiến sĩ … Thế mà, Thầy lại
giao nhiệm vụ ấy cho một sinh viên
à?"
Ông nói, "Đừng lo lắng – tôi biết anh có khả năng làm việc
đó."
Tôi nói, "Nếu Thầy tin cậy em, em sẽ cố hết sức. Nhưng
có một điều em phải nói với Thầy, rằng nếu em phát hiện ra một cái gì sai trong
đó, thì em sẽ ghi chú bên dưới, và nó nên được sửa lại như thế nào. Nếu em thấy
một cái gì đó thiếu sót, thì em sẽ làm một cước chú rằng một cái gì đó bị thiếu,
và đây là cái phần bị thiếu."
Ông nói, "Tôi đồng ý. Tôi biết có nhiều cái bị thiếu
trong nó. Nhưng mà anh làm tôi ngạc nhiên: anh thậm chí chưa thấy cuốn sách,
anh thậm chí chưa mở nó ra. Làm thế nào mà anh biết rằng sẽ có nhiều cái bị thiếu
sót trong nó?"
Tôi nói, "Bằng cách nhìn Thầy. Chỉ cần nhìn em, Thầy có
thể thấy rằng rằng em là người thích hợp để dịch nó – qua sự kiện đó, em có thể
thấy một cách hoàn toàn, Tiến sĩ Saxena ạ, rằng Thầy không phải là người thích
hợp để viết nó!"
Và ông quá ưa thích cuộc đối thoại đó, đến nỗi ông kể lại với
mọi người! Cả trường đại học đều biết về cuộc đối thoại đã diễn ra giữa ông và
tôi. Trong kỳ nghỉ hè hai tháng kế đó, tôi đã dịch cuốn sách, và làm những ghi
chú. Khi tôi đưa ông xem, có những giọt nước mắt vui sướng trong mắt ông. Ông
nói, "Tôi biết chắc chắn rằng có một cái gì đó bị thiếu ở đây, nhưng tôi
không thể phát hiện ra, bởi vì tôi chưa bao giờ thực tập nó. Tôi chỉ đơn thuần
đang sưu tầm tất cả thông tin về "ý thức," từ những kinh điển phương
Đông. Tôi đã thu thập nhiều, và rồi, từ đó tôi bắt đầu sắp xếp và phân loại.
Tôi phải mất gần 7 năm để hoàn tất luận án của mình." Ông đã làm một công
trình có tính hàn lâm rất lớn – nhưng chỉ có tính hàn lâm thôi. Tôi nói,
"Nó có tính hàn lâm, nhưng nó không phải là công trình của một thiền giả.
Và em đã làm những ghi chú này – rằng luận án này chỉ có thể được viết bởi một
học giả, chứ không phải là một thiền giả."
Ông nhìn vào tất cả những trang đó, và nói với tôi, "Nếu
anh là một trong những giám khảo của luận án này, chắc hẳn là tôi đã không có
được học vị tiến sĩ! Anh đã phát hiện chính xác những chỗ mà tôi đã thấy nghi
nghi, nhưng mà những gã khùng đã chấm nó thì thậm chí không nghi hoặc gì cả. Nó
đã được khen ngợi rất nhiều."
Ông là một giáo sư tại Mỹ trong nhiều năm, và cuốn sách của
ông thực sự là một tác phẩm hàn lâm bất hủ; nhưng không ai phê bình ông, không
ai chỉ ra những điều đó. Cho nên tôi hỏi ông, "Bây giờ Thầy định làm gì với
bản dịch này?"
Ông nói, "Tôi không thể xuất bản nó. Sau cùng tôi đã
tìm thấy một dịch giả – nhưng mà anh là một giám khảo nhiều hơn là dịch giả!
Tôi sẽ cất giữ nó nhưng tôi không thể xuất bản nó. Với những ghi chú của anh,
và với lời bình luận của anh, nó sẽ hủy hoại toàn bộ uy tín của tôi – nhưng tôi
đồng ý với anh." Thật ra, ông nói, "Nếu tôi có quyền hạn, tôi sẽ tặng
anh một học vị tiến sĩ, chỉ dành cho những ghi chú biên tập và những ghi chú cuối
trang, bởi vì anh đã phát hiện một cách chính xác những chỗ mà chỉ một thiền giả
mới có thể phát hiện; một phi thiền giả không có cách nào phát hiện ra
chúng."
Do vậy, ngay từ đầu, toàn bộ đời tôi đã quan hệ tới hai điều:
* Không bao giờ cho phép bất cứ một điều thiếu trí tuệ nào
áp đặt lên mình, chiến đấu chống lại tất cả mọi loại ngu xuẩn, bất chấp hậu quả
nào.
* Hợp lý tính, hợp logic, cho đến cùng.
Đây là một mặt, mà tôi thường sử dụng với tất cả những người
mà tôi tiếp xúc. Và mặt kia, là hoàn toàn riêng tư, của riêng tôi: trở nên ngày
càng tỉnh giác hơn, để mà sau cùng tôi không chỉ là một "nhà trí thức".
Tôi nhớ lại một trong những phó viện trưởng của tôi. Ông là
một nhà sử học nổi tiếng thế giới. Ông đã là một giáo sư sử học tại Oxford gần
20 năm, và sau khi về hưu khỏi Oxford, ông trở về Ấn Độ. Ông nổi danh thế giới,
và ông được bầu làm phó viện trưởng của trường đại học mà tôi đang theo học.
Ông là một người dễ mến, một nhân cách đẹp, có uy tín lớn, với một kiến thức
bao la, uyên thâm – đã xuất bản rất nhiều cuốn sách mang lại uy tín cho ông.
Do tình cờ, ngày ông nhậm chức phó viện trưởng, lại đúng vào
ngày Phật đản. Và ngày sinh nhật của Đức Phật Gautama thì quan trọng hơn sinh
nhật của bất cứ ai khác, bởi vì ngày sinh nhật của Phật cũng là ngày thành đạo
của Ngài, và cũng là ngày Ngài rời bỏ thân thể. Cùng ngày đó Ngài sinh ra, cùng
ngày đó Ngài chứng ngộ, và cùng ngày đó Ngài nhập diệt.
Toàn thể trường đại học tụ họp lại để nghe người đàn ông này
nói chuyện về Đức Phật Gautama. Và ông là một nhà sử học lớn, ông đã viết về Phật
Gutama; và ông nói với cảm xúc dâng trào. Với những giọt lệ trong mắt, ông nói,
"Tôi vẫn luôn cảm thấy rằng, nếu tôi được sinh ra trong thời của Phật
Gautama, có lẽ tôi đã không bao giờ rời hai bàn chân Ngài."
Theo thói quen của mình, tôi đứng lên, và tôi nói, "Xin
làm ơn rút lại lời nói của Thầy."
Ông nói, "Nhưng tại sao?"
Tôi nói, "Bởi vì đó là những lời giả dối. Thầy đã từng
sống trong thời của Raman Maharshi. Ngài cũng là cùng một loại người, có cùng một
sự chứng ngộ tương tự – và em biết rằng Thầy chưa hề viếng thăm Ngài. Do vậy,
Thầy định lừa gạt ai? Có lẽ Thầy cũng đã không viếng thăm Phật Gautama. Hãy lau
những giọt nước mắt của Thầy đi, đó là những giọt nước mắt cá sấu. Thầy chỉ là
một học giả và Thầy không biết gì về sự chứng ngộ hay những người như Phật
Gautama."
Thính đường bỗng im phăng phắc. Các vị giáo sư của tôi sợ rằng
tôi có thể bị đuổi học; họ luôn luôn sợ rằng tôi có thể bị đuổi bất cứ lúc nào.
Họ yêu mến tôi và muốn tôi ở đó. Nhưng tạo ra một tình huống như thế, một tình
huống oái oăm như thế… và không ai biết phải làm gì, làm thế nào để phá vỡ tảng
băng. Trong vài giây đó, cơ hồ như nhiều giờ đã trôi qua. Vị phó viện trưởng
đang đứng ở đó – ông chắc chắn là người có phẩm chất ưu việt. Ông lau nước mắt,
và xin được tha thứ – có lẽ ông đã sai. Và ông mời tôi đến nhà để ông có thể thảo
luận một cách chi tiết hơn.
Nhưng ông nói, trước toàn thể trường đại học, "Anh nói
đúng. Có lẽ tôi đã không đến thăm đức Phật Gautama, tôi biết như vậy. Tôi đã
không có ý thức khi tôi nói ra điều đó; tôi chỉ đơn giản là đang xúc động, tôi
bị lôi kéo đi. Vâng, tôi không bao giờ viếng thăm Raman Maharshi khi Ngài còn
sinh tiền, mặc dù tôi đã có mặt gần chỗ của Ngài nhiều lần. Tôi thường diễn
thuyết tại Đại học Madras, từ đó chỉ mất vài giờ để tới chỗ Ngài tại Arunachal.
Nhiều người bạn đã bảo tôi, 'Anh nên đi thăm vị này' – và tôi luôn tiếp tục trì
hoãn cho đến khi Ngài mất."
Toàn thể trường đại học đã không thể nào tin chuyện đó. Các
vị giáo sư của tôi đã không thể tin được. Sự kính nể dành cho ông tăng trưởng rất
lớn, và chúng tôi trở thành bạn của nhau. Ông khá già – gần 60 – còn tôi thì chỉ
mới 24, nhưng chúng tôi trở thành bạn của nhau. Và ông không bao giờ, dù chỉ
trong một khoảnh khắc, cho phép tôi cảm thấy rằng ông là một học giả lớn, rằng
ông là phó viện trưởng, rằng ông ở tuổi ông tôi.
Trái lại, ông nói với tôi, "Tôi không biết cái gì đã xảy
ra ngày đó; tôi không phải là một người khiêm cung. Là một giáo sư tại Oxford
trong 20 năm, là một giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học của thế giới,
tôi đã trở nên rất kiêu mạn. Nhưng mà anh đã hủy diệt tất cả, chỉ bằng một cú
đánh. Tôi sẽ mãi biết ơn anh suốt đời tôi: Nếu anh đã không đứng lên, thì có lẽ
tôi vẫn tiếp tục tin rằng hẳn tôi đã viếng thăm Ngài. Nhưng bây giờ, tôi muốn
như vậy… nếu anh có thể tìm thấy một ai đó chứng ngộ, thì tôi muốn ngồi bên cạnh
bàn chân vị ấy và lắng nghe vị ấy."
Tôi nói, Vậy thì Thầy hãy ngồi xuống và lắng nghe."
Ông nói, "Cái gì?"
Tôi nói, "Chỉ đơn giản nhìn em. Đừng để tâm đến tuổi tác của em, hãy ngồi xuống
và lắng nghe em." Và bạn sẽ không tin điều đó – cụ già đó ngồi xuống và lắng
nghe tôi, nghe bất cứ cái gì mà tôi muốn nói với ông. Nhưng thật hiếm người có
nhiều dũng cảm và quá nhiều sự cởi mở như vậy.
Sau ngày đó, ông thường đến nhà trọ để thăm tôi. Mọi người đều
thắc mắc – cái gì đã xảy ra vậy? Tôi đã tạo ra cho ông một tình huống bối rối
như thế! Ông thường đưa tôi về nhà ông và chúng tôi thường ngồi với nhau và ông
thường yêu cầu tôi, "Hãy nói một cái gì đi – tôi muốn lắng nghe. Suốt đời
tôi, tôi chỉ biết nói; tôi đã quên lắng nghe. Và tôi đã từng nói những điều mà
tôi không biết." Và ông lắng nghe theo cách mà một đệ tử lắng nghe vị đạo
sư của mình.
Những vị giáo sư của tôi đều rất thắc mắc. Họ nói, "Có
phải anh đã 'bỏ bùa' ông già đó? Hay là ông đã trở nên lẩm cẩm rồi? Hay là có
chuyện gì xảy ra? Để gặp ông, chúng tôi phải xin một cuộc hẹn và chúng tôi phải
đợi trên một danh sách dài. Khi đến lượt, chỉ lúc đó chúng tôi mới có thể gặp
ông. Thế mà ông lại đến thăm anh – không chỉ thế, ông còn lắng nghe anh nói.
Cái gì đã xảy ra vậy?"
Tôi nói, "Cái tương tự có thể xảy ra cho quý vị, nhưng
quý vị không thông minh được như vậy, và không nhạy bén được như vậy, không hiểu
biết được như vậy. Cụ già đó thực sự là hiếm hoi."
1957 – 1966, GIÁO SƯ
ĐẠI HỌC
Tôi vui hưởng cuộc đời sinh viên của mình vô cùng; bất luận
người ta chống lại tôi, ủng hộ tôi, thờ ơ với tôi, hay yêu mến tôi, thì tất cả
những kinh nghiệm đó đều đẹp. Tất cả mọi cái đó đã giúp tôi khi chính tôi trở
thành giáo sư, bởi vì tôi có thể thấy quan điểm của sinh viên một cách đồng thời
khi tôi đang trình bày quan điểm của tôi.
Và những giờ học của tôi trở thành những câu lạc bộ tranh luận.
Mọi người đều được phép nghi ngờ, tranh luận. Thỉnh thoảng một ai đó bắt đầu lo
lắng về cái gì sẽ xảy ra với khóa học, bởi vì trên một điểm riêng lẻ, có quá
nhiều tranh cãi. Tôi nói, "Đừng lo lắng. Tất cả những gì được cần đến là
việc mài sắc trí thông minh của bạn. Giáo trình là một chuyện nhỏ – bạn có thể
đọc nó trong một đêm. Nếu bạn có một tâm trí sắc bén, thì thậm chí không cần đọc
giáo trình, bạn cũng có thể trả lời. Nhưng nếu bạn không có một tâm trí sắc
bén, thì ngay cả khi có cuốn sách trong tay, bạn cũng sẽ không thể tìm ra câu
trả lời nằm ở đâu. Trong một cuốn sách 500 trang, câu trả lời hẳn phải ở đâu đó
trong một đoạn."
Do vậy, những giờ học của tôi thì hoàn toàn khác. Mọi sự phải
được thảo luận, mọi sự phải được xem xét, trong cách sâu nhất có thể được, từ mọi
góc, từ mọi khía cạnh – và chỉ được chấp nhận nếu trí tuệ của bạn cảm thấy được
thỏa mãn. Bằng không, không cần phải chấp nhận nó; chúng tôi có thể tiếp tục cuộc
thảo luận vào buổi học kế tiếp.
Và tôi kinh ngạc khi biết rằng, khi bạn thảo luận một cái gì
đó và khám phá ra cái "mô hình logic, toàn bộ cái "kết cấu", thì
bạn không cần phải nhớ nó. Nó là khám phá của bạn; nó lưu lại với bạn. Bạn
không thể quên nó.
Chắc hẳn là sinh viên của tôi yêu mến tôi, bởi vì không ai
khác sẽ cho họ quá nhiều tự do, không ai khác sẽ dành cho họ quá nhiều sự tôn
trọng như thế. Không ai khác sẽ cho họ quá nhiều tình yêu thương, không ai khác
sẽ giúp họ mài sắc trí tuệ của họ.
Mọi giáo sư đều quan tâm về tiền lương của mình. Chính tôi
không bao giờ đi nhận lương. Tôi thường chỉ đơn giản trao quyền lại cho một
sinh viên và nói, "Bất cứ khi nào đến ngày đầu tháng, bạn nhận lương và bạn
có thể mang nó đến cho tôi.Và nếu bạn cần bất cứ phần nào của nó, bạn có thể giữ
nó."
Suốt những năm tôi ở trường đại học, một người này hay người
nọ sẽ mang lương đến cho tôi. Người đàn ông phát lương một lần đến thăm tôi chỉ
để nói, "Anh không bao giờ xuất hiện. Tôi vẫn cứ hy vọng rằng, có một lúc
nào đó, anh sẽ đến và tôi sẽ thấy anh. Nhưng thấy rằng có lẽ anh sẽ không bao
giờ đến văn phòng, tôi đã đến nhà anh chỉ để xem anh thuộc loại người nào – bởi
vì, vào ngày đầu tháng, có những vị giáo sư, họ bắt đầu xếp hàng từ sáng sớm để
nhận lương. Anh luôn vắng mặt. Bất cứ sinh viên nào sẽ xuất hiện với chữ ký và ủy
quyền của anh, và tôi không biết liệu tiền lương có đến tay anh hay
không."
Tôi nói, "Ông không cần phải lo lắng, nó luôn luôn đến
tay tôi." Khi bạn tin cậy ai, thật khó cho anh ta lừa dối bạn.
Suốt những năm tôi là giáo sư, không có một sinh viên nào –
được ủy quyền nhận lương – đã từng lấy bất cứ phần nào trong số đó, mặc dù tôi
đã bảo họ, "Tùy ở bạn. Nếu bạn cảm thấy muốn lấy hết, thì bạn có thể lấy.
Nếu bạn muốn giữ một phần của nó, bạn có thể giữ lại. Và nó không phải là tiền
cho vay, và phải hoàn lại, bởi vì tôi không muốn bận tâm về việc phải nhớ ai đã
vay tôi bao nhiêu tiền. Nó chỉ đơn giản là của bạn; không thành vấn đề."
Nhưng không có một sinh viên nào từng lấy một phần nào trong số lương đó.
Tất cả những giáo sư đều chỉ quan tâm đến tiền lương, đến việc
bon chen để giành những chức vụ cao hơn. Tôi chưa từng thấy ai thực sự quan tâm
đến sinh viên và tương lai của họ, và nhất là quan tâm đến sự phát triển tâm
linh của họ.
Nhìn thấy điều đó, tôi mở một trường thiền định nhỏ. Một
trong những người bạn của tôi hiến tặng cái bungalow (nhà gỗ một tầng) và khu
vườn đẹp của anh, và anh xây một thiền thất bằng đá cẩm thạch cho tôi, cho những
buổi thiền định, nên ít nhất 50 người có thể ngồi và thiền định trong cái thất
đó. Nhiều sinh viên, nhiều giáo sư – ngay cả những vị phó viện trưởng – đến để
hiểu thiền định là gì.
Tại Ấn Độ, người Hồi giáo có một loại trang phục nhất định,
người Hindu, người Punjab, người Nam Ấn, người Bengal, cũng vậy. Chẳng hạn, tại
Nam Ấn, bạn có thể mặc một cái lungi; chỉ một cái dhoti mà bạn có thể trùm
quanh người. Và không chỉ thế, người ta kéo nó lên và gấp nó lại, để nó lên tới
đầu gối. Ngay cả tại các trường đại học, những vị giáo sư thường đi dạy trong
cái trang phục đó.
Tôi ưa thích cái lungi, bởi vì nó rất giản dị, giản dị nhất:
không cần thợ may, không cần thiết kế, không gì cả; chỉ cần bất cứ miếng vải
nào cũng có thể được làm thành một cái lungi rất dễ dàng. Nhưng mà tôi lại
không sống tại Nam Ấn, tôi sống tại Trung Ấn, nơi mà lungi chỉ được mặc bởi những
vagabond, những kẻ du thủ du thực, những phần tử "phi xã hội". Nó là
một biểu tượng rằng cá nhân đó "bất cần đời", rằng y không bận tâm về
việc bạn nghĩ gì về y.
Khi tôi bắt đầu đi tới trường đại học trong cái lungi, mọi sự
ngừng lại trong một lát: những sinh viên đi ra khỏi lớp, những giáo sư đi ra khỏi
lớp. Trong khi tôi đi dọc theo hành lang, mọi người đang đứng ở đó quan sát, và
tôi vẫy tay chào mọi người – một sự tiếp đón tốt đẹp!
Vị phó viện trưởng đi ra ngoài: "Có chuyện gì thế? Những
giờ học ngừng nửa chừng, các giáo sư ra ngoài, và có một sự im lặng…" Ông
thấy tôi và tôi vẫy tay chào ông, và ông thậm chí không có gan để đáp lại cái vẫy
tay của tôi.
Tôi nói, "Ít ra Thầy nên vẫy tay chào tôi. Tất cả những
người này đã đến để xem cái lungi của tôi." Tôi nghĩ rằng họ ưa thích nó,
bởi vì hằng ngày các vị giáo sư đến trường với trang phục đẹp, trang phục đắt
tiền. Vị phó viện trưởng rất chăm chút về y phục của ông, và rất nổi tiếng về
ăn mặc đẹp. Nếu bạn đã vào nhà ông, có lẽ bạn đã ngạc nhiên: không có gì ngoài
quần áo treo la liệt khắp nhà, ông, người giúp việc và y phục của ông.
Tôi nói, "Ngay cả khi Thầy đi vào, không ai ra khỏi lớp.
Nhưng một cái lungi nghèo nàn – những người nghèo nhất mặc nó – đã đưa họ ra
ngoài! Và tôi dự định sẽ đến trường hằng ngày trong cái lungi này."
Ông nói, "Một trò đùa thì không sao cả, một ngày thì
không sao cả, nhưng đừng đi quá xa."
Tôi nói, "Khi tôi làm một cái gì đó, tôi sẽ làm tới
cùng."
Ông nói, "Anh muốn nói gì? Anh muốn nói, rằng anh thực
sự định đến hằng ngày trong một cái lungi à?"
Tôi nói, "Ngay bây giờ, đó là cái mà tôi có ý định làm.
Nếu tôi bị can thiệp vào, tôi có thể đến thậm chí không có một cái lungi. Thầy
có thể tin lời tôi về chuyện đó. Nếu tôi bị can thiệp trong một cách nào đó, nếu
Thầy cố nói rằng nó không thích hợp cho một giáo sư, hay bất luận Thầy nói cái
gì, tôi không bận tâm… Nếu Thầy có thể giữ im lặng, tôi sẽ vẫn mặc cái lungi;
nhưng nếu Thầy bắt đầu làm một cái gì chống lại tôi, thì cái lungi sẽ biến đi.
Tôi sẽ đến… và rồi, Thầy sẽ thấy cái cảnh thực!"
Và đó là một màn trào lộng, bởi vì tất cả sinh viên bắt đầu
vỗ tay khi họ nghe điều này và ông cảm thấy quá bối rối, đến nỗi ông không biết
làm gì hơn là đi trở lại phòng mình. Ông không bao giờ nói một lời nào về cái
lungi nữa. Tôi dò hỏi nhiều lần, "Về cái lungi của tôi thì sao? Có hành động
nào chống lại nó hay không?"
Ông nói, "Anh chỉ cần để cho tôi yên – hãy làm bất cứ
cái gì mà anh muốn. Và tôi không muốn nói bất cứ điều gì, bởi vì nói với anh bất
cứ điều gì đều nguy hiểm, người ta không bao giờ biết là anh sẽ xử lý nó ra
sao. Tôi không nói, 'Hãy trút bỏ cái lungi', tôi nói, 'Hãy trở lại y phục cũ của
anh'."
Tôi nói, "Những cái đó đã ra đi, và cái gì ra đi là ra
đi – tôi không bao giờ nhìn lại đằng sau. Bây giờ tôi dự định mặc một cái
lungi."
Do vậy, ban đầu tôi ra ngoài với một cái lungi, với một cái
robe. Rồi một hôm, tôi bỏ cái robe và chỉ dùng một cái khăn quàng. Một lần nữa,
lại có một "tấn tuồng" lớn, nhưng ông giữ bình tĩnh. Mọi người đi ra
ngoài, nhưng ông không đến – có lẽ bởi vì ông sợ rằng tôi đã trút bỏ cái lungi!
Ông không ra khỏi phòng mình. Tôi gõ cửa phòng ông. Ông nói, "Anh đã làm
chuyện đó?"
Tôi nói, "Chưa. Thầy có thể đi ra ngoài."
Ông mở cửa và chỉ nhìn ra ngoài để xem tôi có mặc y phục hay
là tôi đã trút bỏ mọi thứ. Ông nói, "Vậy, bây giờ anh đã thay đổi – cái
robe cũng vậy?"
Tôi nói, Tôi cũng đã thay đổi cái đó. Thầy có điều gì để nói
không?"
Ông nói, "Tôi không muốn nói một lời nào. Tôi thậm chí
không nói chuyện với những người khác, về anh. Những nhà báo thường gọi điện và
hỏi, 'Tại trường đại học, người ta được phép ăn mặc ra sao? Bởi vì cái đó sẽ trở thành một tiền lệ và
sinh viên có thể bắt đầu đến trường trong cái lungi, và những giáo sư khác cũng
vậy.'
"Tôi bảo họ, 'Bất cứ cái gì xảy ra, ngay cả khi mọi người
bắt đầu mặc lungi đến trường, nó ok với tôi. Tôi không định quấy rầy anh ta, bởi
vì anh ta dọa tôi rằng, nếu tôi quấy rầy anh ta, trong cách nào đó, thì anh ta
có thể đến trường, trần truồng. Và anh ta nói, rằng sự trần truồng là một lối sống
tâm linh được chấp nhận tại Ấn Độ. Mahavira trần truồng, 24 tirthankara của đạo
Jaina cũng trần truồng, hằng ngàn tu sĩ vẫn còn trần truồng, và nếu một
tirthankara có thể trần truồng, thì tại sao một giáo sư lại không thể? Tại Ấn Độ,
thì sự trần truồng không thể bị đối xử bất kính trên bất cứ phương diện
nào'."
Rồi ông nói tiếp: "Tôi nói với mọi người, 'Nếu anh ta
muốn thực sự tạo ra sự hỗn loạn… và anh ta có những môn đệ tại trường đại học;
có nhiều sinh viên sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà anh ta bảo họ làm. Do vậy, tốt
nhất là cứ để anh ta yên'."
Tôi đã phát hiện – suốt đời mình – rằng, nếu bạn chỉ đơn giản
sẵn sàng hy sinh cái sự "khả kính", thì bạn có thể làm theo ý mình một
cách rất dễ dàng. Xã hội đã chơi một trò chơi với bạn. Nó đã đặt cái sự
"khả kính" lên một cái bệ quá cao trong tâm trí bạn, và đối diện với
nó, tất cả những điều mà nó muốn bạn đừng làm. Do vậy, nếu bạn làm chúng, bạn
đánh mất cái sự "khả kính". Một khi bạn sẵn sàng nói, "Tôi không
quan tâm đến sự khả kính," thì xã hội hoàn toàn bất lực trong việc làm bất
cứ cái gì chống lại ý muốn của bạn.
Khi tôi trở thành một giáo sư tại trường đại học, việc đầu
tiên mà tôi làm là… Khi tôi bước vào, tôi thấy những cô gái đang ngồi trong một
góc. Đằng trước mặt tôi là bốn, năm dãy ghế trống rỗng, còn những cậu trai thì đang
ngồi ở một góc đằng kia. Tôi nói, "Tôi sắp dạy ai, những cái bàn và ghế
này chắc? Và cái thứ vớ vẩn gì thế này? Ai đã bảo các bạn ngồi như vậy? Hãy ngồi
chung lại với nhau và xích lại gần trước mặt tôi."
Họ lưỡng lự. Họ chưa bao giờ nghe một giáo sư bảo họ ngồi
chung. Tôi nói, "Ngồi chung lại ngay lập tức; nếu không, tôi sẽ báo cáo lại
với ông phó viện trưởng rằng một cái gì đó hoàn toàn trái tự nhiên, phi tâm lý
học, đang diễn ra."
Họ di chuyển một cách chậm rãi, một cách lưỡng lự… Tôi nói,
"Đừng do dự! Chỉ đơn giản di chuyển, ngồi chung lại với nhau. Trong giờ học
của tôi, các bạn không thể ngồi tách rời nhau. Và tôi không quan tâm nếu bạn chạm
vào cô gái và cô gái kéo áo sơ mi của bạn; bất cứ cái gì tự nhiên, đều được chấp
nhận. Cho nên, tôi không muốn bạn ngồi ở đó, đóng băng, co rúm. Cái đó sẽ không
xảy ra trong giờ học của tôi. Hãy tận hưởng việc ở cùng nhau. Tôi biết các bạn
đang ném những mảnh giấy nhỏ, những hòn đá, những lá thư. Không cần thiết. Chỉ
đơn giản đến ngồi bên cạnh cô gái, trao lá thư cho cô ta, và bất cứ cái gì mà bạn
muốn làm – bởi vì, thực ra thì các bạn đã trưởng thành về giới tính; bạn nên
làm một cái gì đó. Thế mà bạn lại đang học triết, bạn hoàn toàn điên rồ! Phải
chăng đây là thời gian để học triết? Đây là thời gian để đi ra ngoài và làm
tình. Triết học là dành cho tuổi già, khi bạn không thể làm bất cứ cái gì khác
– lúc đó, bạn có thể học triết học."
Tất cả họ đều sợ. Một cách chậm rãi, một cách từ từ, họ trở
nên thư giãn, nhưng những lớp khác bắt đầu cảm thấy ghen tỵ với họ. Những giáo
sư khác bắt đầu báo cáo với ông phó viện trưởng, "Người đàn ông này thật
nguy hiểm. Anh ta đang cho phép con trai và con gái làm những điều mà tất cả
chúng ta đều đã và đang cấm. Thay vì ngăn chận chúng giao tiếp với nhau, anh ta
lại đang 'vẽ đường cho hươu chạy'! Anh ta nói, 'Nếu bạn không biết cách viết
thư tình, hãy đến với tôi. Tôi sẽ dạy bạn. Triết học là thứ yếu – nó không nhiều.
Chúng ta sẽ hoàn tất khóa học 2 năm trong vòng 6 tháng. Một năm và 6 tháng còn
lại, hãy tận hưởng, nhảy múa, ca hát. Đừng lo lắng.'
Sau cùng, ông phó viện trưởng phải gọi tôi đến, và ông nói,
"Tôi đã nghe mọi thứ này. Anh nói gì?"
Tôi nói, "Hẳn Thầy đã từng là một sinh viên tại trường
đại học."
Ông nói, "Vâng. Nếu không, làm thế nào tôi có thể là
phó viện trưởng được?"
Tôi nói, "Vậy thì, hãy lùi lại một chút và nhớ lại những
ngày đó, khi mà những cô gái và Thầy đang ngồi cách xa nhau. Cái gì đang diễn
ra trong tâm trí Thầy lúc đó?"
Ông nói, "Anh có vẻ là một gã kỳ lạ. Tôi đã yêu cầu anh
đến để dò hỏi về một cái gì đó."
Tôi nói, "Cái đó, sẽ tính sau. Trước hết, hãy trả lời
câu hỏi của tôi. Và hãy thành thật; nếu không, Thầy sẽ phải chịu cuộc thách thức
công khai ngày mai, trước toàn thể trường đại học, tất cả giáo sư, tất cả sinh
viên. Chúng ta có thể thảo luận vấn đề này và để cho họ bỏ phiếu."
Ông nói, "Xin đừng bị kích động. Có lẽ anh nói đúng. Quả
thực, tôi còn nhớ. Bây giờ tôi đã già, và tôi hy vọng rằng anh sẽ không nói
chuyện này với bất cứ ai – lúc đó tôi đang nghĩ về các cô gái. Tôi không đang
nghe giảng, và không ai lắng nghe vị giáo sư cả. Những cô gái thì đang ném những
mẩu giấy nhỏ, chúng tôi đang ném những mẩu giấy nhỏ, những lá thư đang được
trao đổi."
"Vậy," tôi nói, "tôi có thể đi rồi chứ?"
Ông nói, "Dĩ nhiên. Anh chỉ đơn giản đi và làm bất cứ
cái gì anh muốn. Tôi không muốn một cuộc chạm trán công khai với anh, tôi biết
anh sẽ thắng. Anh có lý. Nhưng tôi là một gã đáng thương; tôi phải chăm lo cho
cái chức vụ của mình. Nếu tôi bắt đầu làm một điều như thế, thì chính phủ sẽ
ném tôi ra khỏi chức vụ phó viện trưởng."
Tôi nói, "Tôi không quan tâm đến cái chức phó viện trưởng
của Thầy. Thầy vẫn là phó viện trưởng, nhưng hãy nhớ: đừng bao giờ gọi tôi một
lần nữa. Nhiều lời phàn nàn sẽ đến, nhưng tôi làm rõ – ngay bây giờ – rằng, mọi
lúc tôi đều sẽ đúng."
Ông nói, "Tôi đã hiểu rồi."
Những sinh viên – nam và nữ, họ không phải là sinh viên thuộc
môn học của tôi – bắt đầu hỏi tôi, "Chúng em có thể đến dự học
không?"
Tôi nói, "Triết học chưa bao giờ quá hấp dẫn như vậy.
Hãy đến! Bất cứ ai đều được hoan nghênh. Tôi không bao giờ điểm danh. Hằng
tháng, khi cuốn sổ điểm danh trở lại, tôi chỉ đơn giản phết vào – vắng, có mặt,
vắng, có mặt. Tôi chỉ phải nhớ rằng mọi người phải có mặt trên 75% trong tổng số
buổi học, để họ có thể dự kỳ thi. Tôi không bận tâm. Do vậy, các bạn có thể đến."
Những lớp học của tôi thì quá đông đúc. Sinh viên ngồi cả
trên các cửa sổ. Nhiều người trong số họ lẽ ra phải đang ngồi tại một lớp nào
khác.
Rồi lại có những than phiền, và ông phó viện trưởng nói,
"Đừng bắt tôi phải nghe những lời than phiền về người đàn ông đó. Đó là vấn
đề của quý vị nếu sinh viên không đến lớp quý vị. Tôi có thể làm gì nào? Anh ta
có thể làm gì, nếu họ ưa thích anh ta hơn? Và họ không phải là sinh viên triết,
nhưng họ không muốn đến lớp sử học, kinh tế học, chính trị học của quý vị. Tôi
có thể làm gì được nào? Và anh ta đã thách tôi, 'Đừng bao giờ gọi tôi đến một lần
nữa, nếu không, Thầy sẽ phải đối mặt với một cuộc chạm trán công khai.'"
Nhưng quá nhiều lời than phiền đến từ mọi khoa, đến nỗi sau
cùng ông lại phải đến. Ông biết rằng, tốt hơn là đừng triệu tôi đến; nhưng ông
đã phải đến lớp tôi. Ông đã không thể tin có chuyện đó.
Trong môn triết học, thường có rất ít sinh viên, bởi vì triết
học không phải là một môn học kiếm được nhiều tiền. Nhưng mà lớp triết của tôi
thì quá tải; không có chỗ thậm chí cho ông bước vào. Tôi thấy ông đang đứng ở cửa
lớn phía sau sinh viên. Tôi bảo họ, "Hãy để Thầy phó viện trưởng vào. Hãy
để cho ông cùng thưởng thức toàn bộ cái "cảnh" đang diễn ra ở
đây."
Ông đi vào. Ông không thể tin ở mắt mình, rằng tất cả những
cô gái và những cậu trai đều đang ngồi chung với nhau và đang lắng nghe một
cách quá vui sướng. Không có một nhiễu loạn nào, bởi vì tôi đã ngăn cản mọi sự
nhiễu loạn ngay từ gốc rễ. Bây giờ chàng trai đang ngồi bên cạnh cô bạn gái của
mình; không cần phải ném đá, ném thư. Không cần thiết.
Ông nói, "Tôi không thể tin rằng một lớp đông đúc như
thế, mà lại im lặng như tờ."
Tôi nói, "Nhất thiết phải thế, bởi vì không có sự trấn
áp, đè nén nào. Tôi đã bảo sinh viên rằng, khi họ muốn rời, họ không cần xin
phép tôi, họ chỉ đơn giản bỏ đi; khi họ muốn đến, họ cứ việc đến. Họ không cần
xin phép tôi. Họ có mặt ở đây hay không, đó không phải là việc của tôi. Tôi yêu
thích việc giảng dạy. Tôi sẽ tiếp tục dạy – nếu bạn muốn ngồi ở đây, hãy cứ ngồi;
nếu không, hãy 'biến đi'. Nhưng không ai bỏ đi."
Vị phó viện trưởng nói, "Việc này nên diễn ra cho mọi lớp
học. Nhưng tôi không phải là một người mạnh mẽ như anh; tôi không thể nói với
chính phủ rằng, đây là cách nên làm."
Tôi được mời đến một seminar, nhiều phó viện trưởng và viện
trưởng đại học đã tụ họp ở đó. Họ rất lo lắng về sự thiếu kỷ luật trong các trường
phổ thông, cao đẳng, và đại học, và họ lo lắng về thái độ bất kính của thế hệ
trẻ đối với các thầy cô.
Tôi lắng nghe những quan điểm của họ, và tôi nói với họ,
"Tôi thấy rằng, một nơi nào đó, cái cơ sở bị thiếu mất. Một vị thầy là một
người được kính trọng một cách tự nhiên, cho nên một vị thầy không thể đòi hỏi
sự kính trọng. Nếu người thầy đòi hỏi sự kính trọng, thì ông ta chỉ đơn giản chứng
tỏ rằng ông ta không phải là một vị thầy; ông đã chọn sai nghề, nó không phải
thiên chức của ông. Định nghĩa của một ông thầy chính là: một người được kính
trọng một cách tự nhiên – không phải là bạn phải kính trọng ông. Nếu bạn phải
kính trọng ông, thì đây là loại kính trọng nào vậy? Hãy nhìn xem: 'phải kính trọng'
– toàn bộ vẻ đẹp bị đánh mất, sự kính trọng không còn sống động. Nếu nó bị cưỡng
bách, thì nó không có mặt ở đó. Khi sự kính trọng có mặt ở đó, không ai tự ý thức
về nó. Nó chỉ đơn giản tuôn chảy. Bất cứ khi nào một vị thầy có mặt ở đó, nó chỉ
đơn giản tuôn chảy một cách tự nhiên."
Cho nên, tôi hỏi seminar: "Thay vì yêu cầu sinh viên học
sinh kính trọng người thầy, xin quý vị hãy nhìn lại – hẳn quý vị đang chọn nhầm
những người thầy, họ không phải là vị thầy chút nào cả."
Những người thầy thì cũng như những nhà thơ bẩm sinh, và nghề
giáo là một nghệ thuật. Không phải ai cũng có thể là một người thầy, nhưng bởi
vì việc giáo dục phổ thông, hằng triệu "ông thầy" được cần đến. Hãy
thử nghĩ về một xã hội mà cho rằng mọi người đều phải được dạy thi ca và thi ca
phải được dạy bởi những nhà thơ. Rồi thì hằng triệu nhà thơ sẽ được cần đến. Dĩ
nhiên, sẽ có những đại học đào tạo các nhà thơ. Những nhà thơ đó sẽ là nhà thơ
"dổm", và rồi họ sẽ yêu cầu, "Hãy vỗ tay hoan nghênh chúng tôi!
– bởi vì chúng tôi là những nhà thơ. Tại sao các anh chị không chịu kính trọng
chúng tôi?" Điều này cũng đã xảy ra với những người thầy.”
Trong quá khứ, có rất ít người thầy. Người ta thường đi hằng
ngàn dặm để tìm một người thầy, để được ở bên cạnh ông ta. Có sự kính trọng rất
to lớn, nhưng sự kính trọng tùy thuộc vào phẩm chất của vị thầy. Môn đệ hay học
trò không bị bắt buộc phải kính trọng thầy. Sự kính trọng khởi lên một cách hồn
nhiên.
Xem tiếp Chương 6 – Quay về Mục lục