Osho
- Thực tại - Kẻ tội đồ vĩ đại
Chương
2: Lý trí là tên phản bội
Osho yêu quý,
Tôi nghe ông
nói rằng chúng ta đều là những chiếc lá trên cùng một cây, và sự khai sáng chỉ
có thể bắt đầu khi chúng ta thực sự hợp nhất với nhau. Mặt khác, tôi cũng nghe
ông nói rằng bản thân mỗi người chỉ có thể sống trọn vẹn cuộc sống của mình
trong sự tách biệt thực sự. Tôi cảm thấy cả hai điều này đều đúng, nhưng tôi vẫn
chưa thực sự hiểu. Xin ông giải thích cho.
Cả hai đều
đúng, nhưng nó có vẻ mâu thuẫn nên khiến người ta bối rối. Một mặt tôi nói rằng
khi các bạn là một với mọi hiện hữu, bạn sẽ đi đến chứng ngộ - và hợp nhất với
mọi hiện hữu có nghĩa là bạn biến mất, bạn không còn nữa. Mặt khác, tôi cũng
nói rằng các bạn hãy chính mình, hãy là gương mặt của chính mình; chỉ lúc đó bạn
mới có thể trải nghiệm sự chứng ngộ.
Tôi hiểu sự bối
rối của bạn. Bạn cảm thấy cả hai đều đúng - điều quan trọng là lý trí củabạn
không chịu, suy nghĩ của bạn không chấp nhận. Suy nghĩ của bạn đặt ra câu hỏi.
Làm sao mà cả hai cùng đúng được?
Lý trí hoạt động
theo cách 'chỉ thế này hoặc chỉ thế kia': hoặc là điều này đúng, hoặc là cái đối
lập của nó đúng. Theo lý trí, logic và lý luận của lý trí thì không có chuyện cả
hai cùng đúng.
Nếu lý trí chỉ
chấp nhận 'hoặc thế này hoặc thế kia' thì trái tim lại đi con đường 'cả hai'.
Trái tim không có logic mà chỉ có sự nhạy cảm và cảm thụ. Nó có thể hiểu được rằng
không những cả hai có thể tồn tại cùng nhau; mà còn chấp nhận thực tế là chúng
không phải là hai. Nó chỉ là một hiện tượng được nhìn từ hai góc độ khác nhau.
Và không chỉ có hai góc độ như thế - vì thế mà tôi nói "cả hai".
Và trái tim
luôn luôn đúng, nếu phải lựa chọn giữa lý trí và trái tim, vì lý trí chính là một
sản phẩm của xã hội. Nó đã được giáo dục. Xã hội đem nó đến cho bạn chứ không
phải sự hiện hữu. Trái tim không bị hoen ố. Nó là sự hiện hữu thanh khiết: Vì
thế mà nó có sự nhạy cảm.
Hãy nhìn bằng
trái tim và bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn tan chảy như nước đá.
Tôi nói với các
bạn, hãy là một với vũ trụ; bạn phải biến mất và để mặc sự hiện hữu. Bạn phải
biến mất để sự hiện hữu có thể hiện diện trong sự toàn diện của nó. Tuy nhiên,
người phải biến mất đó không phải là sự hiện hữu của bạn, nó chỉ là tính cách của
bạn. Nó chỉ là một ý tưởng trong bạn. Thực tế bạn vốn dĩ vẫn là một với mọi hiện
hữu; bạn không thể tồn tại theo một cách nào khác hơn.
Bạn là hiện hữu.
Thế nhưng tính
cách lại bắt đầu đánh lừa bạn, khiến bạn thấy mình là riêng biệt. Bạn có thể
cho mình là tách biệt - sự hiện hữu đem lại cho bạn tự do hoàn toàn, thậm chí
là tự do trước chính nó. Bạn có thể cho rằng mình là một thực tể tách rời, một
bản ngã. Và đó chính là rào cản không cho bạn tan vào sự bao la vây quanh bạn
trong mọi khoảnh khắc.
Nó không có những
cánh cửa đóng, tất cả các cánh cửa đều mở. Có lúc bạn thực sự cảm thấy có một
cánh cửa mở - nhưng chỉ trong tích tắc; tính cách của bạn không để bạn cảm nhận
điều đó lâu hơn. Những tích tắc đó được bạn gọi là những khoảnh khắc của cái đẹp,
những khoảnh khắc đê mê.
Ngắm nhìn hoàng
hôn, trong giây lát bạn quên mất mình là tách rời. Bạn là hoàng hôn. Đó chính
là khoảnh khắc bạn cảm nhận cái đẹp trong nó. Nhưng ngay khi bạn thốt lên rằng
hoàng hôn thật đẹp chính là lúc bạn không còn cảm nhận được nó nữa; bạn lại trở
về với sự riêng biệt của mình, trong tường thành của cái tôi của mình. Đó là tiếng
nói của lý trí.
Và một trong những
điều bí ẩn là lý trí có tiếng nói - nhưng nó chẳng biết gì cả; và trái tim thì
biết tất cả - mà lại không biết nói.
Có lẽ vì biết
nhiều quá nên thật khó mà lên tiếng được.
Lý trí biết ít
lắm, vậy nên nó có thể nói. Nó chỉ cần ngôn ngữ là đủ, nhưng như vậy thì chưa đủ
cho trái tim.
Tuy nhiên có những
lúc, dưới tác động của một thời khắc nào đó - một đêm đầy sao, một cảnh bình
minh, một bông hoa đẹp - và chỉ trong bình minh, một bông hoa đẹp - và chỉ
trong khoảnh khắc bạn quên mất mình là riêng biệt. Và sự quên đó mở ra cái đẹp
và niềm say mê bao la.
Khi tôi nói bạn
phải biến mất để có được chứng ngộ cao nhất, tôi không hàm ý là bạn; tôi muốn
nói đến 'con người' không phải là bạn. Tôi muốn nói đến 'con người' mà bạn nghĩ
rằng đó là bạn.
Còn vế sau, chỉ
có hòa nhập làm một với mọi hiện hữu, hoàn toàn tan chảy vào nó thì bạn mới chứng
ngộ được chính mình, bạn mới nhìn ra sự thật. Trái tim không có sự mâu thuẫn, bởi
"con người" mà bạn chứng ngộ khi bạn hòa tan làm một với mọi tồn tại
không còn là con người trước đây của bạn nữa. Con người kia là tính cách của bạn,
là cá nhân của bạn, nó được xã hội đem đến cho bạn, còn con người này là bản chất,
là thực tại, là món quà của sự hiện hữu. Bạn có thể quênnó, nhưng bạn không thể
phá hủy nó.
Con người kia của
bạn, con người giả mạo của bạn - bạn có thể tạo ra nó, nhưng bạn không thể làm
cho nó có thật. Nó sẽ mãi là một cái bóng, một gương mặt được sơn vẽ. Nó sẽ
không bao giờ trở thành gương mặt nguyên thủy của bạn.
Hồi còn dạy ở
trường đại học, tôi nhớ trong khu hiệu bộ có một con đường nhỏ. Có mấy căn nhà
gỗ rất đẹp dùng làm phòng làm việc cho mấy vị trưởng phó khoa. Rất yên tĩnh, vắng
lặng, không xe cộ.. và con đường không dài lắm, chỉ khoảng nửa dặm và cuối đường
là một thung lũng sâu.
Cứ mỗi khi trời
mưa, tôi thích đi trong mưa. Căn nhà phia cuối đường chỉ còn là một dấu chấm.
Người ta cứ thấy chuyện này lặp đi lặp lại, cứ mỗi khi trời mưa họ lại thấy tôi
xuất hiện trên con đường nhỏ đó, và căn nhà cuối đường; rồi thung lũng phía xa.
Người ta nghĩ hẳn
tôi điên mất rồi - không ô, người ướt như chuột lột, râu tóc rũ rượi và bước đi
chậm rãi, thoải mái... cứ như là không có mưa vậy. Tôi cứ đi như thế đến gốc
cây bồ đề lớn gần cuối đường.
Cây bồ đề có
nhiều vẻ đẹp lắm. Vẻ đẹp của nó nằm trong những tán lá mà bạn có thể nấp mưa:
những chiếc lá không để cho nước mưa chạm đến người bạn. Và nó có tán lá rất
dày hứng đầy nước mưa trên đó. Những chiếc lá giống như cái tách đựng thật nhiều
nước.
Nếu bạn bất ngờ
mắc mưa và không muốn bị ướt, cây bồ đề sẽ bảo vệ bạn được lâu hơn bất kỳ loài
cây nào khác. Nhưng một vẻ đẹp khác của cây bồ đề là - mà điều này quan trọng
hơn đối với tôi - khi trời tạnh mưa thì dưới tán cây bắt đầu đổ mưa! - những
tán lá còn giữ được nước thêm bao lâu nữa? Khi quá nhiều nước rồi thì những chiếc
lá bắt đầu ngả ra... Vậy là, khi cả thế giới lặng im thì mưa bắt đầu đổ dưới
tán cây bồ đề.
Thế nên tôi thường
đi về cuối đường và dừng chân dưới gốc cây bồ đề. Và đối với những người sống
trong căn nhà phía cuối đường thì chuyện này cũng thật là điều điên rồ. Cây bồ
đề chỉ có thể bảo vệ bạn được mấy phút đầu khi trời mưa còn sau đó thì nó trở
nên nguy hiểm, nguy hiểm nhất. Mưa tạnh rồi nhưng dưới tán bồ đề vẫn mưa thêm
ít nhất một tiếng đồng hồ nữa.
Trẻ con trong
căn nhà nọ, người vợ, đứa con gái, con trai - họ kéo nhau ra hiên nhà xem tôi.
Và hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trở thành điều đương nhiên là, hễ trời mưa là
tôi xuất hiện.
Căn nhà đó là của
một giáo sư vật lý xuất sắc, trưởng khoa lý của trường. Ông rất quý tôi vì có lần
tôi đã đưa vật lý và tâm linh đến gần nhau hơn bao giờ hết. Có lẽ những nhận định
đó của tôi có thể được đưa ra bởi một nhà vật lý học, cũng có thể bởi một thầy
tâm linh.
Ông là một người
khiêm tốn. Ông đã đi giảng ở nhiều trường đại học trên khắp thế giới. Cứ mỗi
khi tôi giảng trong hội sinh viên, mỗi tuần một hoặc hai buổi... ông đều đến
nghe - lúc nào ông cũng đến. Nhiều giáo sư khác cũng đến, nhưng ông là người đến
thường xuyên nhất. Và chúng tôi thành bạn.
Ông già rồi.
Ông từng làm việc với Albert Einstein, ông đến Mỹ để thế chỗ cho Einstein - vì
ông là đồng nghiệp gần gũi nhất của ông ấy, ngoài ông ra không ai có thể nhận vị
trí đó.
Chúng tôi trở
thành bạn thân và ông mời tôi đến nhà ông, giới thiệu tôi với vợ con ông. Lúc
đó tôi không hề biết rằng, vợ con ông đều đã biết tôi rồi và tôi cũng biết họ.
Thấy tôi bước
vào, vợ con ông cứ rúc rích cười khiến ông rất giận. Ông nói, "Tôi mời một
người bạn về nhà. Dù là anh ấy trẻ còn tôi thì già, và tình bạn này có vẻ lạ
lùng, nhưng quan niệm của chúng tôi về thực tại rất gần nhau, em và các con
không được cư xử như vậy - chưa bao giờ mọi người cư xử như thế cả".
Nhưng vợ ông
nói: "Anh không biết người này đâu".
Rồi tôi bảo
ông: "Vợ anh nói đúng đấy: chúng tôi biết nhau hai năm nay rồi".
Ông ngạc nhiên:
"Gì cơ? Cậu biết vợ con tôi à?".
Tôi đáp:
"Cũng không hẳn, nhưng đại loại là có biết. Tôi thường đi trên con đường
này mỗi khi trời mưa; tôi yêu mưa, và những người này thích nhìn tôi - một người
điên - đi trong mưa. Anh giới thiệu tôi mà họ cứ cười rúc rích, thậm thí vợ anh
không nhịn được cười, vậy không phải là họ vô lễ đâu".
Nhà vật lý học
này có gặp một số sannyasin ở Mỹ và gửi cho tôi một lá thư: "Người cuối
cùng tôi muốn gặp chính là anh. Tôi sẽ trở lại Ấn Độ sớm nhất có thể để được gặp
lại anh. Và đó là vì tôi cảm thấy anh hoàn toàn đúng khi nói trái tim nhìn sự
việc gắn với thực tại nhiều hơn so với lý trí".
Thế nhưng ông
đã mất trước khi đến được Ấn Độ. Tôi cảm thấy lúc ra đi ông đã nghĩ về tôi.
Trong thực tại chúng tôi là một.
Chúng tôi tách
rời trong cái tôi giả tạo.
Thế nên, khi
tôi nói bạn hãy hòa tan cái tôi của bạn, tôi muốn nói đến những cái mà bạn tự tạo
ra, hoặc những cái mà xã hội tạo ra cho bạn. Hãy cảm nhận sự tĩnh lặng của cái
phút giây bạn không phải là cái tôi đó; lúc ấy bạn sẽ cảm nhận được nhịp điệu của
những đám mây, của đại dương và của những ngọn núi.
Ngày bạn vứt bỏ
cái tôi giả dối là ngày đẹp nhất trong cuộc đời bạn, bởi lúc đó bạn sẽ chỉ chứng
ngộ cả vũ trụ. Bạn không mất gì cả - bạn chỉ mất một ý tưởng giả tạo - và bạn
có tất cả; vũ trụ vô hạn với tất cả vẻ đẹp báu vật của nó.
Tuy nhiên, trước
khi bạn có thể vứt bỏ cái tôi giả tạo, bạn phải tìm cho được cái tôi thực sự; nếu
không bạn sẽ trở nên trống rỗng khi vứt bỏ cái tôi kia đó. Đó chính là lý do tại
sao tôi nói bạn hãy là chính mình. Điều đó đơn giản là, cảm nhận thực tại của bạn
sẽ giúp bạn vứt bỏ những vỏ bọc giả tạo. Mà thực ra thì những thứ giả tạo sẽ tự
nó mất đi. Khi sự thật xuất hiện, sự giả dối sẽ ra đi. Và sự thật xuất phát từ
một chỗ đứng, mỗi cá nhân - cá nhân chứ không phải cá tính. Cá tính chẳng qua
là một mớ bòng bong; một chút từ mẹ bạn, một chút từ bố bạn, một chút từ hàng
xóm, bạn bè, vợ con, thầy cô, giáo sĩ, lãnh đạo... Nó là sự chắp vá và không phải
là không thể tách rời được.
Nó gần như là
đã tách rời xa rồi - vào bất kỳ lúc nào, một tai nạn nhỏ và nó sẽ vỡ vụn - nó
không có linh hồn để kết nối những mảnh rời của mình. Nó không có sự nguyên vẹn,
nó chỉ là những mảnh tách rời.
Tôi dùng từ
"cá nhân" với hàm ý là "không thể tách rời" để chỉ cái đối
lập với "cá tính". Cá nhân nghĩa là không thể tách rời: bạn không thể
phân chia nó, nó không có những phần nhỏ - nó không thể vỡ vụn. Nó là tảng đá đặc,
nó hoàn toàn đơn nhất. Nó được nhìn từ góc độ so sánh với cá tính, nhưng đây mới
chỉ là một góc độ.
Nhìn từ vũ trụ,
bạn không còn là cá nhân nữa. Thậm chí sự phân chia ranh giới cũng mất đi. Bạn
là nhất thể. Gió, cây, trăng không bị tách rời, bạn cũng vậy. Bạn đang hít thở
từng khoảnh khắc. Mọi hiện hữu không tách biệt khỏi bạn, ngay cả khi bạn nghĩ rằng
bạn tách biệt.
Và khi bạn biết
rằng bạn không tách rời, đó là sự chứng ngộ vĩ đại. Lúc đó mọi lo sợ đánh mất
cái tôi của mình, mọi nỗi sợ đánh mất cá tính của mình đều biến mất. Bạn trở về
với nguyên thủy của mình. Bạn đến với sự bất diệt, với vũ trụ. Tôi gọi điều này
là sự giác ngộ. Bạn đã đến nơi ánh sáng tràn đầy. Bạn sống trong sự diệu kỳ của
cuộc sống.
Ngắm nhìn một
bông hoa, bạn trở thành bông hoa. Bạn không ngắm nó từ bên ngoài; bạn cảm nhận
nó từ trong sâu thẳm nó. Những cánh hoa là của chính bạn, hương hoa là của
chính bạn. Bạn không phải là người ngắm hoa - bạn là chính bông hoa.
Krishnamurti cứ
nhắc mãi điều này - cả cuộc đời ông vẫn nói thế; tôi không nghĩ là những người
từng nghe ông thuyết giảng đã thực sự lắng nghe ông. Đây chính là sự quan sát
mà ông nhắc đi nhắc lại: cái được quan sát trở thành người quan sát hoặc người
quan sát trở thành cái được quan sát.
Bạn không ngắm
nhìn mặt trời lặn từ đằng xa; bạn ở trong nó, bạn là một phần của tất cả những
màu sắc đẹp tuyệt vời đó. Và sống cuộc sống trong sự thấu cảm sâu thẳm như vậy
là trải nghiệm đẹp đẽ nhất mà con người có được. Hãy tin vào cảm nhận của bạn.
Đừng bao giờ tin vào lý trí - lý trí của bạn chính là kẻ phản bội Judas.
Osho yêu quý,
Càng thiền sâu
tôi càng cảm thấy mình phải trách nhiệm với bản thân và với thế giới.
Làm sao như thế
được?
Cũng vậy thôi,
vẫn là câu hỏi đó.
Càng là chính
mình, bạn sẽ càng cảm thấy có trách nhiệm với thế giới bởi vì càng hòa nhập vào
thế giới thì bạn không còn tách rời khỏi nó nữa. Việc thực sự là chính mình có
nghĩa là trách nhiệm to lớn - nhưng không phải gánh nặng. Nó là niềm vui khi bạn
được làm điều gì đó cho hiện hữu.
Hiện hữu đã làm
rất nhiều cho bạn và bạn sẽ không cách nào đền đáp hết. Nhưng ta có thể làm được
chút gì đó, dù là rất nhỏ so với những gì hiện hữu đã đem đến cho ta, nhưng ít
nhất đó cũng là lòng tri ân của ta. Vấn đề không phải là nhiều hay ít; vấn đề
là ở lời cầu nguyện của ta, lòng biết ơn của ta, và nhất thể của ta cũng nằm
trong đó.
Đúng vậy, điều
đó sẽ xảy ra: càng là chính mình, bạn càng cảm thấy mình phải có những trách
nhiệm mà trước đây bạn chưa bao giờ cảm nhận được.
Điều này nhắc
tôi nhớ, trong cuộc đời của Mahavira, vị triết gia có ảnh hưởng nhất trong Kỳ
na giáo... Ngài du hành khắp nơi cùng môn đồ thân tín nhất của mình là
Goshalak. Và đây là câu chuyện họ đang bàn luận với nhau: Mahavira nói:
"Trách nhiệm của ta đối với cuộc sống cho thấy ta đã đi đến đâu trên con
đường tới thực tại đích thực. Ta không nhìn thấy thực tại đích thực nhưng ta có
thể thấy trách nhiệm của mình."
Trên đường họ
nhìn thấy một cây con. Và Gosholak là một nhà logic học - anh nhổ cây này lên
và vứt đi. Đó là một cây con với những chiếc rễ bé xíu.
Mahavira nói:
"Vậy là vô trách nhiệm. Nhưng con không thể làm điều gì chống lại cuộc sống
được. Con có thể cố, nhưng nó sẽ không cho kết quả ngược lại."
Goshalak đáp:
"Vậy, cuộc sống đã làm gì cho con nào? Con nhổ cái cây đó đi; và cuộc sống
cũng chẳng thể nào làm cho nó sống lại được."
Mahavira cười lớn.
Rồi họ tiếp tục đi vào thị trấn để khất thực. Ăn xong họ quay lại, và thật kỳ lạ:
cây con kia đã đứng dậy sống tiếp. Trong lúc họ vào thị trấn thì ở đây trời đổ
mưa, và rễ cây nhờ cơn mưa mà đâm xuống đất. Rễ cây rất bé, mà trời thì gió, và
gió đã giúp cho cây đứng dậy.
Khi họ trở lại,
cây con kia đã vươn lên vững chãi. Mahavira nói: "Hãy nhĩn em. Ta đã nói rồi,
con không thể chống lại sự sống được. Con có thể cố, nhưng nó sẽ trở lại chống
lại con, vì nó sẽ tách con ra càng xa khỏi cuộc sống. Nó sẽ không đưa con đến gần
thêm đâu.
Hãy xem cái cây
này. Ai mà nghĩ được là chuyện này sẽ xảy ra, rằng cơn mưa và gió trời sẽ đem
nó trở lại, đâm rễ thật sâu xuống đát. Nó sẽ sống cuộc đời của nó.
Đối với chúng
ta nó chỉ là một cây con, nhưng nó là một phần của vũ trụ bao la, của sự sống
bao la, của quyền năng vĩ đại". Và Mahavira bảo Goshalak: "Từ đây con
đường của chúng ta chia cắt. Ta không thể cho phép một người chống lại sự sống
và không cảm nhận được trách nhiệm của mình sống với ta được."
Toàn bộ triết
lý phi bạo lực của Mahavira có thể gọi là triết lý tôn thờ sự sống. Phi bạo lực
đơn giản là một phần của nó.
Điều này sẽ vẫn
diễn ra như vậy: càng hiểu chính mình, bạn càng cảm thấy mình có trách nhiệm với
nhiều thứ mà bạn chưa bao giờ để tâm đến. Hãy coi đó là một tiêu chí: càng thấy
mình có trách nhiệm với mọi người, mọi vật, sự sống, bạn càng yên tâm là mình
đang đi đúng đường.
Thầy giáo của
tôi, Giáo sư Ras Biharidas lúc ấy đã già và sống một mình. Ông hài lòng với cuộc
sống và vui thú với chính mình rằng không bao giờ ông cần đến một ai. Ông là
trưởng khoa và được cấp một căn nhà gỗ lớn - ông sống một mình ở đó. Tôi và ông
ngày càng thân thiết hơn và ông yêu quý tôi như một người cha đối với con trai
mình.
Ông nói: "Cậu
không cần ở trong ký túc xá đâu - hãy về đây với tôi. Cả đời tôi đã sống ở đây
rồi...". Ông thường chơi đàn sitar - có lẽ ông là người chơi xita hay nhất
mà tôi từng biết, mà tôi thì đã được nghe tất cả những nghệ sĩ sitar xuất sắc
nhất biểu diễn rồi. Thế nhưng ông không chơi đàn để tiêu khiển người ta; đó chỉ
là một thú vui của ông.
Chẳng ai có thể
tưởng tượng được thời gian biểu của ông: cứ đến 3 giờ sáng là ông lại thức dậy
và chơi sitar. 70 năm qua ông vẫn chơi sitar vào lúc 3 giờ sáng. Vấn đề bắt đầu
nảy sinh ngay ngày đầu tiên tôi đến sống với ông. Tôi thường đọc sách đến 3 giờ
sáng mới đi ngủ - mà giờ đó là giờ ông dậy chơi đàn.
Đối với cả tôi
và ông, điều này thật khó chịu, vì tôi thích đọc những gì tôi thích, không phải
đọc thầm mà là đọc to lên. Nếu chỉ đọc bằng mắt bạn chỉ phần nào liên hệ được với
tác phẩm. Còn khi bạn đọc lớn một bài thơ, bạn trở thành một phần của nó; lúc
đó bạn trở thành thi sĩ. Bạn quên đó là bài thơ của ai đó; nó trở thành một phần
xương máu của bạn.
Tất nhiên là
tôi làm cho ông khó ngủ. Và lúc tôi đi ngủ thì tôi cũng bị khó ngủ. Ngay bên
tai, ở phòng bên cạnh, ông bắt đầu chơi nhạc cụ điện tử - ghi ta, sitar và nhiều
nhạc cụ khác. Sau hai ngày chúng tôi cùng mệt rã rời.
Ông bảo tôi:
"Cậu cứ ở đây - tôi sẽ đi!"
Tôi đáp: "Thầy
không cần đi đâu - mà thầy sẽ đi đâu cơ chứ? Ít nhất con còn có ký túc xá để ở.
Con sẽ đi".
Nhưng ông lại
nói: "Tôi không thể để cậu đi được. Tôi quý cậu, tôi quý sự hiện diện của
cậu ở đây. Nhưng thói quen của chúng ta thật nguy hiểm cho cả hai. Tôi chưa bao
giờ đụng chạm đến một ai. Và tôi cũng hiểu cậu - cậu sẽ không đụng chạm đến
tôi. Nhưng thế này thì cả hai ta đều chết! Cậu sẽ không bảo tôi thay đổi thời
gian biểu. Tôi cũng không thể nói cậu đi khỏi đây; vì thế mà tôi đi - cậu hãy ở
lại ngôi nhà này".
Tôi cố thuyết
phục ông: "Con không ở đây được đâu. Thầy đi rồi thì trường cũng không cho
phép con ở trong căn nhà này - nó là dành cho thầy. Con phải về ký túc xá
thôi". Ông đưa tôi trở lại ký túc xá mà nước mắt rưng rưng.
Tôi nhớ đến ông
lúc này vì chưa bao giờ trong cuộc đời tôi từng gặp một người nào nhiệt tình và
nhạy cảm đến vậy. Thậm chí nếu có vô tình va phải chiếc ghế ông cũng dừng lại
xin lỗi nó - xin lỗi chiếc ghế. Tôi nói với ông: "Thế này thì quá xa rồi!".
Ông đáp:
"Tôi cảm thấy như thế. Tôi va phải chiếc ghế tội nghiệp. Nó không nói được;
hẳn nó phải giận tôi lắm. Mà nó là một phần của vũ trụ, nó đã phục vụ tôi, tôi
đối với nó lại không trân trọng, tôi va phải nó. Tôi cần phải xin lỗi".
Ở trường người
ta cho rằng ông điên - trên thế giới này một người đi xin lỗi cái ghế thì không
thể là người tỉnh táo được. Tôi quan sát ông rất kỹ; ông là một trong những người
tỉnh táo nhất. Trách nhiệm của ông thật lớn lao.
Ông không thể bảo
tôi, đó là nhà của ông. Ông có thể nói tôi đọc nhỏ lại, đọc vào lúc khác, hoặc
đọc vào lúc ông chơi nhạc, nhưng ông không làm vậy. Mọi chuyện có thể dễ dàng
hơn rất nhiều - đó là điều mà tất cả mọi người trên thế giới này hẳn sẽ làm. Thế
nhưng, sự nhạy cảm và trân trọng sâu sắc đối với người khác của ông, thậm chí cả
sự tôn kính của ông đối với đồ vật là không thể lay chuyển.
Người ta nhìn
cách ông cư xử và cho rằng: "Ông này có vấn đề về thần kinh". Nhưng
không ai chịu hiểu rằng, trạng thái tâm lý bình thường giúp người ta hiểu được
trách nhiệm của họ đến mức biến họ thành những người điên trong mắt kẻ khác.
Chẳng hạn như
Mahavira chỉ nằm nghiêng một bên khi ngủ. Suốt đêm ông không trở mình một lần
nào. Người ta hỏi thì ông đáp răng - vì ông sống trơ trọi, không có gì là của
mình, nằm ngủ trên nền đất trống trải... Nếu trở mình, có thể ông sẽ đè bẹp một
chú kiến hay những loài côn trùng khác, mà ông thì không muốn chuyện đó xảy ra.
Trách nhiệm của ông trước cả những sinh vật nhỏ bé nhất chứng tỏ sự hợp nhất của
ông với cuộc sống.
Cách ông khất
thực cũng sẽ giải thích cho bạn hiểu ý tôi muốn nói. Không nơi nào trên thế giới
lại có người làm việc này - quá nhiều niềm tin vào cuộc sống! Buổi sáng, sau giờ
thiền định, ông hình dung ra mình sẽ nhận thức ăn trong điều kiện nào. Và nhiều
khi suốt 30 ngày trời ông chẳng thể nhận một miếng thức ăn nào chỉ vì cái ông
đã hình dung ra, một điều kiện đặc biệt không được đáp ứng. Những điều thật kỳ
lạ...
Chẳng hạn, ông
mường tượng rằng ông sẽ chỉ nhận thức ăn nếu người phụ nữ ở ngôi nhà đó vừa bế
con và cho con bú, vừa đem thức ăn ra cho ông. Và ông sẽ chỉ nhận thức ăn nếu sự
việc diễn ra đúng y như vậy; nếu không ngày hôm đó coi như xong. Và hôm sau ông
sẽ thử lại.
Môn đồ của ông
liên tục bảo ông: "Chuyện này kỳ cục quá! Trước giờ đã có rất nhiều các thầy
tu khổ hạnh vĩ đại rồi. Thầy có thể chịu đựng sự khổ hạnh chừng nào thầy muốn,
còn đây lại là một chuyện hoàn toàn khác".
Ông nói:
"Chuyện này chẳng liên quan gì đến việc tu khổ hạnh cả. Ta để mặc nó cho
cuộc sống, còn ta, ta đang tạo ra điều kiện trong đó ta có thể biết được cuộc sống
có muốn ngày hôm nay ta được ăn hay không. Đây là chuyện giữa ta và cuộc sống.
Nếu điều kiện không được thỏa mãn thì đơn giản nó có nghĩa là cuộc sống muốn ta
phải chịu sự khổ hạnh. Đó không phải là sự khổ hạnh của ta, nó chỉ đơn giản là
hôm nay cuộc sống không muốn ta ăn, và Đấng toàn năng luôn sáng suốt hơn tất thảy".
Và đôi khi những
điều kiện lạ lùng như vậy được thỏa mãn một cách khó tin. Không ai có thể tưởng
tượng được chuyện đó lại xảy ra. Sau 13 ngày nhịn đói, ông vẫn cứ tiếp tục như
vậy: trừ phi điều kiện đó được thỏa mãn chứ ông không chịu thay đổi điều kiện.
Ông sẽ chỉ thay đổi khi nó đã được đáp ứng, lúc đó ông sẽ đưa ra điều kiện thứ
hai.
Điều kiện ông
đưa ra là ông sẽ nhận thức ăn nếu người cho thức ăn đó là một công chúa - không
phải một thiếu nữ bình thường mà là một công chúa cao quý - chân bị xiềng và
tay bị trói. Đến đây thì điều kiện của ông có vẻ thật ngớ ngẩn. Thứ nhất, nếu
đó là một công chúa thì sao nàng lại bị trói và bị xiềng? Và nếu nàng bị trói
tay và xiềng chân thì nàng chỉ có ở trong ngục mà thôi! Có thể sẽ có một công
chúa như thế, nhưng nàng công chúa đó sẽ không thể cho thức ăn được.
Nhưng chuyện xảy
ra thế này, có một vị vua nọ giận cô con gái Chandana của mình đến mức ra lệnh
còng tay và cùm chân công chúa 24 tiếng đồng hồ. Nàng không bị giam trong ngục
mà được tự do đi lại trong cung điện.
Và khi Mahavira
đến, bấy giờ cuộc tranh cãi bắt đầu nổ ra: nàng muốn đem thức ăn ra cho
Mahavira. Nàng cảm động trước con người này, nàng ngưỡng mộ cách nghĩ của ông,
còn cha nàng thì hoàn toàn phản đối. Thế là nàng bị còng tay và cùm chân - nàng
không thể ra khỏi cung điện trong tình trạng đáng xấu hổ như thế. Khi Mahavira
đến, có hàng ngàn môn đồ theo chân ông.
Công chúa đem
thức ăn ra và hàng ngàn môn đồ kia không thể tin vào mắt mình. Vì đúng ngày hôm
đó, sau 13 ngày, các môn đồ bắt đầu cầu xin ông: "Mahavira, chúng con sẽ
không nói cho ai khác biết; chúng con chỉ muốn biết liệu có ý nghĩa gì trong những
điều kiện của ngài hay không. Liệu cuộc sống có đủ lòng trắc ẩn không? Nó có bận
gì đến ngài không? Chỉ lần này thôi, chúng con muốn biết, điều kiện của ngài là
gì?".
Ông nói cho họ
nghe về điều kiện đó.
"Trời ơi,
không thể nào có chuyện đó xảy ra được đâu...", họ thốt lên.
Mahavira nói:
"Điều đó đơn giản nghĩa là cuộc sống không cần ta. Ta không phiền trách
gì; có lẽ sứ mệnh của ta đã hoàn tất, và ta không nhất thiết là một gánh nặng nữa".
Thế mà điều kiện đó đã được thỏa mãn.
Niềm tin như thế
trước cuộc sống, niềm tin không lay chuyển đó sẽ đến khi bạn bắt đầu nhận lấy
trách nhiệm. Khi bạn cảm thấy mình có trách nhiệm với những vật nhỏ bé nhất
quanh mình, cuộc sống sẽ đáp lại bạn bằng hàng ngàn cách. Bạn không mất gì cả.
Osho yêu quý,
Liệu một người
nghiện thuốc lá có thể thiền định được không? Tôi hút thuốc 25 năm nay rồi, và
tôi cảm thấy thuốc lá khiến tôi không đạt được trạng thái thiền sâu... Nhưng
tôi không thể bỏ thuốc lá. Xin ông cho tôi lời khuyên về chuyện này.
Người hành thiền
không được hút thuốc lá, đơn giản vì lúc thiền, hành giả không được căng thẳng,
lo lắng.
Hút thuốc nhất
thời giúp bạn quên những lo âu căng thẳng của mình. Nhiều thứ khác cũng có tác
dụng tương tự - kẹo chewing-gum cũng có thể làm được điều đó, nhưng thuốc lá là
hiệu quả nhất.
Sâu trong vô thức
của bạn, hành động hút thuốc có liên hệ với việc bú sữa mẹ. Và cùng với sự phát
triển của xã hội, các bà mẹ không còn muốn cho con bú sữa của mình vì như vậy sẽ
làm ngực họ sệ xuống và không còn đẹp nữa.
Trẻ con có nhu
cầu khác. Trẻ con không cần một bầu vú căng tròn, vì nó sẽ giết chết đứa trẻ. Nếu
bầu vú tròn, lúc bú đứa trẻ sẽ không thở được. Mũi nó bị bầu vú chèn và nó sẽ bị
ngạt thở.
Nhu cầu của một
đứa trẻ khác với nhu cầu của một họa sĩ, của nhà thơ, của một người đàn ông với
cái đầu mỹ học. Đứa trẻ cần một bầu vú dài để mũi nó không bị chèn và nó có thể
vừa thở vừa bú. Chính vì thế mà trẻ con thường cố làm cho bầu vú của mẹ nó phù
hợp với nhu cầu của nó. Mà không bà mẹ nào lại muốn bầu vú của mình bị phá hủy.
Nó là một phần vẻ đẹp của họ, một phần cơ thể, dáng vóc họ.
Thế là cùng với
sự phát triển của xã hội, trẻ con bị tách khỏi bầu vú mẹ ngày càng sớm. Và khao
khát được bú từ bầu sữa mẹ vẫn khắc khoải trong tâm trí chúng. Bất cứ khi nào
người ta căng thẳng, lo âu thì thuốc lá sẽ giúp họ. Nó giúp họ một lần nữa được
làm đứa bé, thư thái trong vòng tay mẹ.
Thuốc lá mang
tính hình tượng. Nó giống như đầu vú mẹ, và khói thuốc đi qua có hơi ấm như hơi
ấm dòng sữa mẹ. Như vậy nó có tính đối xứng nhất định, và bạn bị lệ thuộc vào
nó, lúc hút thuốc bạn lại trở thành đứa trẻ, không lo toan, không sợ hãi, không
phải gánh vác trách nhiệm.
Bạn nói rằng bạn
hút thuốc suốt 25 năm nay, bạn là người nghiện thuốc lá; bạn muốn bỏ thuốc
nhưng bạn không bỏ được. Bạn chỉ có thể bỏ thuốc nếu bạn thay đổi được nguồn
căn của việc đó.
Tôi đã giúp được
rất nhiều đệ tử bỏ thuốc. Mới đầu họ cười tôi khi tôi chỉ họ làm theo cách của
tôi. Họ không thể tin nổi một giải pháp đơn giản như vậy có thể giúp được họ.
Tôi bảo họ: "Đừng cố bỏ thuốc, tốt hơn là sử dụng một chiếc bình bú sữa của
em bé. Và đêm đến, khi mọi người đã ngủ hết không ai nhìn thấy bạn, bạn hãy nằm
trong chăn mà bú những giọt sữa ấm áp từ chiếc bình đó. Ít nhất là nó chẳng gây
hại gì cho bạn cả". Họ nói: "Nhưng như vậy thì nó có tác dụng
gì?".
Tôi đáp,
"Đừng nghĩ đến nó - như thế nào và tại sao - cứ làm vậy đi. Bạn được uống
thức uống bổ dưỡng trước khi ngủ và việc này chẳng hại gì cả. Và tôi tin rằng
ngày hôm sau bạn sẽ không còn thấy cần đến thuốc lá nữa. Bạn hãy thử mà
xem".
Và việc này đã
khiến họ phải kinh ngạc - dần dần, dần dần họ không còn thèm thuốc lá nữa, bởi
nhu cầu cơ bản của họ đã được đáp ứng: họ không còn là trẻ con nữa, họ đang trưởng
thành, và thuốc lá đi ra khỏi cuộc sống của họ.
Bạn không thể bỏ
thuốc ư? Trước mắt, bạn nên áp dụng một cách nào đó không có hại, lành mạnh hơn
để thay thế, nhờ đó mà bạn trưởng thành và thuốc lá tự động mất hấp lực của nó.
Trẻ nhỏ hiểu được
điều này - tôi học được bí quyết này từ chúng. Nếu một đứa trẻ khóc đòi ăn mà mẹ
nó không có ở đó, nó sẽ đưa ngón tay cái lên bú. Và nó quên đi cơn đói, nín
khóc và ngủ lịm đi. Nó tìm được một sự thay thế - dù cái đó không cho nó thức
ăn nhưng ít nhất nó cũng đem lại cảm giác tương tự. Nó giúp đứa bé thư giãn.
Tôi đã giúp một
số đệ tử của tôi, thậm chí là bảo họ làm thử cách bú ngón tay. Nếu bạn ngại đem
bình sữa nóng ấm vào giường ngủ và ngại vợ con nhìn thấy thì tốt hơn hết là: bú
ngón tay cái khi ngủ. Cứ bú ngón tay và tận hưởng cảm giác mà nó đem lại.
Người ta cứ cười
tôi khi tôi bày cho họ làm như vậy, nhưng rồi tất cả đều phải thừa nhận là:
"Cách đó có tác dụng, và càng ngày tôi càng hút ít thuốc lá hơn". Có
lẽ phải mất vài tuần trước khi bạn có thể bỏ thuốc hoàn toàn. Thực ra khi đó tự
nhiên thuốc lá ra đi chứ bạn cũng không cần phải cố gắng bỏ nữa. Việc bạn cố bỏ
thuốc là sự đè nén, mà cứ cái gì bị đè nén thì đều cố ngoi lên với sức mạnh lớn
hơn, dữ dội hơn. Vậy nên, bạn đừng cố bỏ thói quen nào.
Hãy đi tìm căn
nguyên của nó và tìm một cách thay thế lành mạnh hơn. Thế là căn nguyên không
còn nữa - thuốc lá chỉ còn là một dấu hiệu. Việc cần làm trước tiên là, từ bỏ nỗ
lực từ bỏ thuốc lá. Tiếp đến, tìm một cái bình sữa tốt, và đừng ngượng ngùng. Nếu
bạn thực sự ngượng thì hãy dùng ngón tay vậy. Ngón tay sẽ không hiệu quả bằng,
nhưng dù sao thì vẫnc ó tác dụng.
Tôi chưa thấy
ai làm theo cách của tôi mà thất bại cả. Một ngày nào đó bạn sẽ không thêểtin nổi
là bạn đã từng hủy hoại sức khỏe của chính mình, không chịu hít thở không khí
trong lành mà lại đi hít thở cái thứ khói đen, bẩn mà lại hại phổi kia.
Vấn nạn nghiện
thuốc lá sẽ ngày càng trầm trọng hơn vì phong trào giải phóng phụ nữ càng phát
triển thì trẻ con càng ít được bú mẹ. Tôi không nói là người ta cần cho con bú;
nhưng họ nên sử dụng các cách thay thế vú mẹ để vô thức của đứa trẻ không bị tổn
thương, để đứa trẻ lớn lên không gặp phải những vấn đề về kẹo chewinggum, thuốc
lá, xì gà... Tất cả những thứ đó đều là dấu hiệu. Ở mỗi nước mỗi khác.
Ở Ấn Độ người
ta nhai trầu, cũng có nhiều người dùng thuốc lá bột. Dù là trầu hay thuốc lá bột
thì cũng vậy. Thuốc lá bột có vẻ không giống các loại kia, nhưng không khác nhiều
lắm đâu. Khi người ta căng thẳng, lo lắng, họ hít một liều thuốc lá bột. Nó làm
cho họ hắt xì, giúp họ tỉnh táo, xốc cả thân người họ lên, và nó đem lại cảm
giác dễ chịu.
Nhưng lo lắng sẽ
trở lại. Thuốc lá bột không thể phá tan nỗi lo. Bạn phải phá hủy nguyên nhân
khiến bạn lo lắng. Tại sao bạn lại lo lắng.
Nhiều nhà báo
nói với tôi thế này: "Khi gặp ông, khó khăn lớn nhất của chúng tôi là
chúng tôi bị căng thẳng. Điều này thật lạ, vì khi phỏng vấn các chính khách,
chính chúng tôi mới là người làm cho họ căng thẳng. Còn ông, ông khiến chúng
tôi căng thẳng, và ngay lập tức chúng tôi thấy cần một điếu thuốc. Rồi ông lại
không cho chúng tôi hút, vì ông dị ứng với khói thuốc.
Cách của ông
hay thật đấy! - chúng tôi không được hút thuốc, ông làm chúng tôi căng thẳng và
cái loại dị ứng của ông ngăn cản chúng tôi hút thuốc... thế là ông thoát được
đám nhà báo chúng tôi".
Nhưng tại sao họ
căng thẳng khi gặp tôi? Những chính khách kia là những con người đầy quyền uy -
nhà báo căng thẳng khi tiếp xúc với họ là điều dễ hiểu. Thế nhưng, sự thực là
bên trong những kẻ cầm quyền đó chỉ là sự trống rỗng, và quyền lực của họ chỉ
là thứ vay mượn, họ lo giữ tư cách đáng trọng của họ. Mỗi lời họ nói ra, họ phải
suy nghĩ thật chín. Họ sợ rằng các phóng viên đó có thể tạo ra những tình huống
phá sụp ảnh hưởng của họ đối với người dân. Hình ảnh mà họ đã dày công gây dựng
nên cần phải ngày càng tốt đẹp hơn. Đó là nỗi lo của họ. Và do nỗi lo đó, một
tay nhà báo - bất kể là nhà báo loại nào, không chút quyền hành - cũng có thể
khiến họ căng thẳng.
Còn tôi thì không
như vậy. Tôi không có ham muốn được người ta nể trọng. Tôi khét tiếng như vậy
là đủ rồi. Tôi đã làm tất cả những việc có thể làm tôi căng thẳng; và tôi đã vượt
qua. Rồi họ làm gì được tôi nào? - Tôi chẳng có quyền hành để mà mất, và tôi có
thể nói bất kỳ điều gì tôi muốn vì tôi không sợ lời nói của tôi mâu thuẫn hay
không nhất quán. Trái lại, tôi thích sự mâu thuẫn, sự không nhất quán đó.
Họ thấy lo sợ,
và nỗi lo sợ đó lập tức đem lại cho họ ý nghĩa phải làm một điều gì đó, phải
nghĩ đến việc khác để không ai nhận ra sự căng thẳng của họ. Cứ nhìn xem: khi bạn
thấy mình cần một điếu thuốc, tại sao bạn lại cần nó? Có điều gì khiến bạn căng
thẳng và bạn không muốn người khác nhìn thấy tình trạng của bạn.
Chuyện này nhắc
tôi nhớ đến... Ngày nọ, tại một nhà thờ ở New York, khi vị giám mục bước vào
thánh đường, ông trông thấy một người lạ với bộ dạng hippie. Thế nhưng chính
chàng thanh niên hippie[1] này lại làm ông giám mục lo sợ, vì anh ta nhìn thẳng
vào mắt ông giám mục mà nói: "Ông biết ta là ai không? Ta là Chúa Jesus
đây".
Ông giám mục gọi
điện đến Rome: "Tôi phải làm gì?" - ông này hỏi đức Giáo hoàng -
"Có một thanh niên hippie nhưng trông rất giống đức Jesus. Con chỉ có một
mình ở đây. Anh ta đến từ hồi sáng sớm. Con không biết phải làm gì khi đức Jesus
đến, con cần được chỉ dẫn thật rõ ràng để không phạm sai lầm".
Chính Giáo
hoàng cũng bắt đầu lo lắng. Ngài nói: "Chỉ cần làm một việc duy nhất thôi:
tỏ ra bận rộn! Đồng thời gọi điện tới sở cảnh sát. Và cứ tỏ ra bận rộn để hắn
không thấy sự lo sợ của con".
Thuốc lá làm
cho bạn trông có vẻ bận rộn; nó che đậy sự căng thẳng của bạn. Vì thế nên đừng
cố từ bỏ nó, nếu không bạn sẽ cảm thấy lo lắng và rồi bạn sẽ lại quay về với
thói quen cũ. Bạn thèm vì trong bạn còn thiếu điều gì đó.
Hãy bù đắp cái
thiếu đó - có nhiều cách để làm việc này. Chỉ một bình sữa trẻ con cũng có thể
giúp được. Nó sẽ cho bạn thức uống bổ dưỡng, giúp bạn khỏe mạnh hơn và mang đi
tất cả những mong muốn được tỏ ra bận rộn của bạn!
Osho yêu quý,
Ông nói rằng
cái mới sẽ chiến thắng. Có thực sự phải là mới, hay chỉ là những cái cũ được
đánh bóng? Ở Đức có những ấn phẩm lợi dụng tên tuổi của ông. Có những sách báo
ghi tên ông trong danh mục tham khảo, cũng có những loại sử dụng ý tưởng của
ông mà lại không ghi tên ông - hoặc có khi còn lên án ông. Tôi thực sự thấy sợ
những con người đó. Họ có ý gì? Ông có thể giúp tôi thoát khỏi nỗi sợ ấy chăng?
Không cần phải
sợ những loại người đó. Đó là điều vẫn xảy ra trên khắp thế giới. Người ta sử dụng
lời của tôi mà không ghi tên tôi. Chuyện đó chẳng hại gì, vì tên tôi đâu có
quan trọng; điều quan trọng là lời của tôi. Dù cho những người đó có ăn cắp
cũng chẳng hại gì. Những ý tưởng của tôi có thể khơi nguồn tốt đẹp trong một
người nào đó, mà những người này chưa chắc tự họ đã làm được như vậy. Ý tưởng của
tôi có thể sẽ bắt đầu một sự chuyển biến trong ai đó và khiến người đó phải tìm
đến nguồn gốc của ý tưởng kia.
Người ta không
ghi tên tôi vì hai lý do. Một là, họ muốn thể hiện mình sáng tạo. Hai là, họ sợ
rằng họ sẽ bị lên án nếu nhắc đến tên tôi - và như vậy thì sách của họ sẽ không
được hưởng ứng và coi trọng.
Nhưng bạn đừng
sợ những người này, dù cho lý do của họ có là gì. Tất cả những gì họ lấy từ tôi
đều là lửa, và có hề gì đâu chuyện ngọn lửa đến được trái tim con người ta theo
cách nào đó. Những người làm việc này không thể là một nhà văn, thi sĩ vĩ đại,
nhà tư duy sáng tạo; nếu không họ đã không làm cái hành động ăn cắp như thế. Những
người này là kẻ hạng ba.
Vậy nên nếu họ
ăn cắp ý tưởng nào đó của tôi thì ý tưởng đó sẽ nổi bật trong cả cuốn sách một
cách riêng biệt, không liên quan và không hợp ngữ cảnh. Bất kỳ ai có chút thông
minh đều sẽ thấy rằng phần này không xuất phát từ cùng một người đã viết cuốn
sách đó, vì cuốn sách có mùi vị hạng ba; không chút sáng tạo, không chút thấu
hiểu về những khía cạnh sâu sắc của cuộc sống, và không đủ can đảm để nói lên sự
thật. Vậy nên dù là họ ăn cắp cái gì để tô điểm cho tác phẩm của họ, để làm cho
cuốn sách của họ có thêm giá trị thì nó cũng sẽ phá hủy toàn bộ tác phẩm đó, dù
họ có biết hay không. Họ đã ăn cắp lửa và bỏ vào sách của mình.
Ở Ấn Độ, có một
đài phát thanh sáng nào cũng dành 10 phút phát các câu nói của tôi mà không hề
nhắc đến tên tôi. Và tôi nhận được hàng trăm lá thư từ khắp nơi, rằng: "Những
người đó ăn cắp ý tưởng trong sách của ông".
Tôi nói:
"Đừng lo. Tên tôi thì quan trọng gì đâu, cái quan trọng là thông điệp. Có
lẽ họ cũng yêu mến tôi nhưng họ là những kẻ hèn nhát".
Ở Ấn Độ đài
phát thanh, truyền hình thuộc sở hữu nhà nước. Nếu họ nhắc tên tôi, họ có thể sẽ
bị mất việc. Và tất nhiên từ sau những buổi phát thanh liên tục trong suốt 6
tháng đó, các ông bộ trưởng, nội các chính phủ và cả ngài thủ tướng, đều phát
biểu với những trích dẫn kia, những trích dẫn mà họ tin là chẳng dính dáng gì đến
tôi cả. Thế nhưng thính giả đều biết rằng những phát biểu đó không phải là của
thủ tướng - không thể nào, chẳng liên quan gì tới thủ tướng cả - đó là những lời
phát biểu bị ăn cắp. Và người ta lại bắt đầu đi tìm nguồn gốc của những lời
phát biểu đó.
Cuối cùng tôi
cũng gặp được vị giám đốc đài phát thanh kia. Ông ấy là người ngưỡng mộ tôi, và
ông nói, "Tôi bị lên án dữ dội lắm. Hàng trăm lá thư gửi đến mắng tôi là,
'Ông là thằng ăn cắp. Sao ông không nhắc tên Osho...'. Nhưng nếu tôi nhắc đến
tên ông thì chương trình này sẽ bị cắt ngay lập tức. Tôi sẽ tiếp tục như thế chừng
nào người ta còn chưa phát hiện ra...".
Và khi chuyện bị
lộ, chương trình bị ngưng hẳn và người kia bị cách chức. Ông bảo tôi:
"Cũng tại chương trình đó. Người ta viết thư cho thủ tướng và tố giác tôi
"Ông ta ăn cắp những phát biểu của Osho".
Một vị nguyên
thủ cũng làm việc đó. Người ta gửi cho tôi những bài phát biểu của vị ấy, và từng
từ một, cả một đoạn văn dài vốn là từ sách hoặc băng ghi âm của tôi. Nhưng tôi
vẫn luôn đứng trên lập trường: hãy để sự thật đến với mọi người bằng bất kỳ
cách nào, bởi bất kỳ người nào.
Tôi cứ nghĩ, nếu
tất cả chính phủ các cường quốc trên thế giới đều sợ đến nỗi không dám cho tôi
nhập cảnh vào nước họ - dù chỉ với tư cách là một khách du lịch trong 3 hay 4
tuần - nếu họ bất lực với quyền lực của họ đến nỗi họ thậm chí còn không cho
phép tôi quá cảnh một đêm ở sân bay, mà đó là quyền hợp pháp của tôi...
Một lần nọ ở
Anh, máy bay phản lực của tôi đậu ngoài đường băng và các phi công cần được nghỉ
ngơi. Theo luật thì các phi công chỉ được bay liên tục trong một khoảng thời
gian nhất định, và sau đó họ cần được nghỉ ngơi trước khi bay tiếp. Tôi có quyền
ở lại phòng chờ ở sân bay, nhưng người ta không cho phép tôi ở đó - cứ như đối
với tôi người ta áp dụng thứ luật khác vậy.
Một người đồng
hành của tôi lúc đó tình cờ nhìn thấy tập hồ sơ của người chịu trách nhiệm giữ
chân tôi. Ông này đi vệ sinh và để tập hồ sơ trên bàn. Bạn tôi liếc qua tập hồ
sơ đó và hết sức sửng sốt, trong đó có cả chỉ dẫn của chính phủ... Tôi vừa đến
nơi đã có hẳn một bộ hồ sơ như thế, ghi rõ rằng nếu tôi cố tình ở lại qua đêm
thì cũng không được để tôi ở trong phòng chờ hạng nhất mà phải giam tôi lại;
tôi là một tên nguy hiểm.
Trong phòng chờ
sân bay, từ đây tôi không thể vào được đất nước từ cái phòng chờ ấy. Thế mà người
ta đã chuẩn bị sẵn sàng mọi chỉ dẫn để đối phó với tôi. Ở Anh, tôi phải trải
qua một đêm trong tù mà chẳng có tội tình gì - chỉ vì các phi công không được
bay quá thời gian quy định. Và chính phủ ở đây đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Đó
không phải là một quyết định bộc phát mà là một sự chuẩn bị hết sức chu đáo.
Giờ đây nhiều
quốc gia trên thế giới đã ra nghị quyết cấm tôi bén mảng đến đất nước của họ.
Và một ngày nọ, tôi nhận được tinh rằng Nghị viện châu Âu - cơ quan liên kết tất
cả các nghị viện của châu Âu - đã ra quyết định cấm cả việc tôi đáp máy bay xuống
bất kỳ một sân bay nào thuộc châu Âu.
Hôm nay là ở
châu Âu, Hoa Kỳ cũng vừa mới ra lệnh cấm tương tự. Ngày mai sẽ là châu Á, châu
Úc, châu Phi. Có thể, rất có thể, nếu họ sợ tôi đến thế, họ sẽ bắt đầu cấm lưu
hành sách của tôi. Và có thể việc sách của tôi không mang tên tôi, hay mang tên
một người khác sẽ là điều cần thiết - giống như Chúa thánh thần vậy! Tên tuổi
thì quan trọng gì đâu. Nhưng thông điệp thì cần phải được đem đến cho mọi người.
Chuyện này chưa
từng xảy ra. Cả thế giới chống lại một người - một người không có quyền lực,
không có bom hạt nhân, một người không thể hãm hại ai. Cả thế giới đang tuyên
chiến với một người. Điều này đơn giản cho thấy là tôi đã đánh đúng gốc rễ sâu
kín nhất của họ.
Osho yêu quý,
Những từ này
làm tôi bối rối "nhận lấy trách nhiệm cho bản thân mình". Tôi là người
theo chủ nghĩa cá nhân và thích sống một mình. Nếu tôi làm những việc tôi cảm
thấy là tốt để phục vụ cho chính mình, chẳng phải tôi đang nuôi dưỡng cái tôi của
mình đó sao? Đâu là giới hạn giữa việc nhận lấy trách nhiệm cho chính mình và
nuôi dưỡng cái tôi bằng cách đáp ứng những khuynh hướng của nó?
Không có giới hạn
cho việc nhận lấy trách nhiệm cho chính mình. Và câu hỏi đã được nêu ra - không
chỉ là câu hỏi này, còn nhiều câu hỏi khác nữa vì bạn chỉ nghĩ về chúng; chúng
không phải là trải nghiệm sống của bạn. Nếu bạn nhận lấy trách nhiệm cho chính
mình, bạn không thể là một người theo chủ nghĩa cá nhân, bởi lẽ là một người cá
nhân chủ nghĩa đơn giản có nghĩa là bạn đang chìm trong cơn mê ngủ và chẳng thể
nhận lấy trách nhiệm nào cả. Trách nhiệm chỉ đến trong sự tỉnh táo, sáng suốt.
Bạn đang hỏi một
dạng câu hỏi lý thuyết, kiểu như: "Khi ta đem ánh sáng vào phòng, vậy bóng
tối sẽ ra sao? Ta sẽ ném bóng tối đi đâu?". Lý thuyết thì hoàn toàn đúng.
Đúng là có bóng tối trong phòng và bạn nói: "Đem ánh sáng vào phòng, và
câu hỏi đặt ra là: 'Vậy thì bóng tối sẽ bị đẩy đi đâu? Phải ném nó đi đâu? Bằng
cách nào?' Nhưng câu hỏi đó không liên quan đến sự hiện hữu của chúng ta. Cứ
đem ánh sáng vào đi và sẽ không còn câu hỏi về bóng tối nữa. Sẽ không còn bóng
tối nữa!".
Trách nhiệm là
sự tỉnh táo, sáng suốt, có ý thức. Cái tôi chỉ là vô thức. Chúng không thể tồn
tại cùng nhau được.
Càng ý thức cao
hơn, bạn càng gần ánh sáng, và mọi thứ thuộc về bóng tối sẽ dần biến mất. Cái
tôi không là gì hơn bóng tối ấy.
Vậy nên hãy nhớ
lấy điều này, chỉ hỏi những câu hỏi liên quan đến sự hiện hữu của chúng ta. Những
câu hỏi lý thuyết như thế có vẻ logic nhưng thực sự rất lố bịch. Bạn hãy thử nhận
lấy trách nhiệm, và với việc có trách nhiệm, bạn sẽ phải luôn tỉnh táo và sáng
suốt. Có trách nhiệm, bạn sẽ tạo ra ánh sáng tự động quét sạch mọi bóng tối của
cái tôi.
Xem tiếp Chương 3 – Quay về Mục lục