Hỏi: Mọi người nói rằng thầy là con người của trí tuệ nhưng
không phân biệt - thầy tin cậy mọi người và mọi người phản bội thầy.
Câu hỏi này rất
kì lạ bởi vì phẩm chất thứ nhất của trí tuệ là phân biệt. Con người của trí tuệ
nhất định là con người của phân biệt. Trí tuệ không có chức năng. Chức năng duy
nhất của nó là để quyết định cái gì là đúng, cái gì là sai. Phân biệt là toàn
thể khu vực của nó. Cho nên nếu bạn nói rằng tôi là con người của trí tuệ, thế
thì phần thứ hai của câu hỏi của bạn trở thành không nhất quán với phần thứ nhất.
Và bạn có thể thấy đây là phân biệt; phần thứ nhất trong câu hỏi của bạn là
không nhất quán với phần thứ hai.
Bạn nói rằng
tôi tin cậy vào mọi người và mọi người phản bội tôi. Tôi tự hỏi làm sao bạn đã
đi tới kết luận này. Tôi chắc chắn tin cậy vào mọi người nhưng không ai đã bao
giờ phản bội tôi cả, bởi vì tin cậy của tôi là vô điều kiện. Điều này phải được
hiểu.
Tin cậy của bạn
có thể bị phản bội nếu bạn có điều kiện trong nó. Nếu tôi tin cậy bạn vô điều
kiện, không có khả năng phản bội tôi. Bất kì điều gì bạn làm tôi vẫn sẽ tin cậy
vào bạn. Bạn có thể giết tôi nhưng bạn không thể phá huỷ được tin cậy của tôi.
Tôi sẽ chết khi tin cậy vào bạn.
Nếu bạn làm cái
gì đó mà với người khác có vẻ như phản bội, điều đó đơn giản có nghĩa là bạn
đang phản bội chính bản thân bạn, bạn đang sa ngã khỏi chân giá trị riêng của bạn.
Nhưng bạn không thể phản bội tôi được. Tôi chưa bao giờ kinh nghiệm bất kì phản
bội nào trong cuộc đời mình. Tôi không thể lên án bất kì ai về phản bội. Mọi
người đã hành xử theo cách người đó có thể và tôi chưa bao giờ trông đợi người
đó hành xử theo bất kì cách nào khác. Tôi đã tin cậy vào người đó theo cách người
đó vậy. Tin cậy của tôi không phải là đòi hỏi rằng bạn phải hành xử theo cách
nào đó. Cho nên bất kì điều gì bạn làm, bạn đều đang làm cho bản thân bạn,
không phải cho tôi.
Nhưng bất kì ai
đã hỏi câu hỏi này đều không nhận biết về tin cậy vô điều kiện, yêu vô điều kiện.
Tất cả tình yêu của chúng ta, tất cả tin cậy của chúng ta, đều có điều kiện. Và
bởi vì nó là có điều kiện nên nó không chân thực, nó không thực. Thế thì nếu một
người hành xử hơi khác đi chút ít, đi theo hướng khác với bạn đã đòi hỏi, trực
tiếp hay gián tiếp, lập tức bạn bắt đầu lên án người đó, rằng người đó đã phản
bội bạn. Bạn đã giả định rằng bạn đã mua người đó và cả tương lai của người đó
nữa. Tương lai vẫn còn để mở. Bạn không thể nói được điều gì người khác sẽ làm
ngày mai và bất kì cái gì người đó định làm, người đó sẽ làm cho bản thân người
đó. Bạn không nên bị ảnh hưởng bởi điều đó. Nếu bạn bị ảnh hưởng bởi nó thế thì
bạn không phải là con người của chứng ngộ.
Tôi không bị ảnh
hưởng chút nào bởi điều mọi người làm với tôi. Mối quan tâm của tôi là ở chỗ
tôi vẫn còn như vậy dù bất kì điều gì họ làm - dù họ ủng hộ tôi hay chống đối
tôi, dù họ là bạn tôi hay họ là kẻ thù của tôi, điều đó không thành vấn đề.
Tình yêu của tôi, tin cậy của tôi vẫn còn nguyên vậy.
Tôi thấy buồn
cười bởi nhiều lí do. Trước hết, bất kì ai nghe tôi, người đã đọc tôi, đều sẽ
thấy rất dễ dàng rằng tôi không phải là con người của trí tuệ, bởi vì về mặt
trí tuệ bạn có thể thấy cả nghìn lẻ một bất nhất và mâu thuẫn trong các phát biểu
của tôi. Nhưng tôi chẳng thấy bất nhất nào, chẳng thấy tự mâu thuẫn nào, bởi vì
với tôi cuộc sống không là logic và để tìm ra chân lí của cuộc sống, trí tuệ
không phải là con đường. Cuộc sống là điều bí ẩn, bạn không thể hình dung ra được
nó là gì. Bạn có thể kinh nghiệm nó, nếm trải nó, ca hát nó, nhảy múa nó, nhưng
bạn không thể giải thích nó. Bạn không thể tạo ra lí thuyết từ nó.
Khoảnh khắc bạn
bắt đầu làm ra lí thuyết, ngay lập tức bí ẩn của cuộc sống biến mất. Chức năng
của trí tuệ là lí thuyết hoá. Khoa học tùy thuộc vào trí tuệ. Đó là lí do tại
sao có thể nói rằng toàn thể nỗ lực của khoa học là để giải trừ bí ẩn của sự tồn
tại. Khoa học chia sự tồn tại thành hai loại: cái biết và cái không biết. Và
cái được biết hôm nay đã là cái không biết hôm qua, và cái không biết hôm nay
có thể là cái biết ngày mai, cho nên phân biệt này không phải về chất - vấn đề
chỉ là thời gian và tìm kiếm của con người. Khoa học có thể quan niệm một ngày
nào đó khi tất cả sẽ được biết và phân loại của cái không biết sẽ biến mất. Đây
là cách thức của trí tuệ: giải bí ẩn, làm cho mọi thứ thành được biết, phá huỷ
cái không biết.
Làm sao bạn có thể
nói rằng tôi là con người của trí tuệ? Tôi đang làm chính điều đối lập lại.
Toàn thể nỗ lực của tôi là làm cho ngay cả cái biết thành cái không biết. Đem
bí ẩn trở lại trong cuộc sống của bạn - ngay cả trong những thứ nhỏ bé mà bạn
đã bắt đầu coi như đương nhiên có, tôi muốn bạn có cái nhìn khác.
Tôi nhớ tới một
trong những con người tuyệt vời nhất trong thế kỉ này, D.H. Lawrence. Ông ấy
đang đi dạo trong vườn với một đứa trai nhỏ, cũng hệt như mọi đứa trẻ nhỏ đều
tò mò, đứa bé cứ hỏi hết câu hỏi nọ tới câu hỏi kia. Với một câu hỏi, ngay cả
D.H. Lawrence cũng bị sững sờ. Đứa trẻ hỏi, "Cháu xin lỗi. Cháu chắc phải
làm bác mệt bởi việc hỏi các câu hỏi, nhưng đây là câu hỏi cuối cùng: cháu muốn
biết tại sao cây lại xanh."
Và câu trả lời
chợt đến từ D.H. Lawrence là có ý nghĩa; nó không phải là câu trả lời của trí
tuệ. Ông ấy nói, "Cây xanh bởi vì chúng xanh."
Đứa bé đồng ý,
điều đó là hoàn toàn đúng. Nhưng Lawrence cứ nghĩ mãi, "Đấy mà là câu trả
lời sao? Liệu có người nào tiếp cận tới cuộc sống một cách trí tuệ mà được thoả
mãn với nó không?" Nhưng thực tại là ở chỗ bất kì điều gì chúng ta biết đều
bị bao bọc bởi tính không thể biết được vô hạn; không chỉ cái không biết.
Và đó là nơi
tôi tạo ra sự khác biệt. Khoa học khách quan phân chia cuộc sống, sự tồn tại,
thành hai loại - cái biết và cái không biết. Khoa học của nội tâm phân chia cuộc
sống thành ba loại - cái biết, cái không biết và cái không thể biết được. Và
cái không thể biết được là quan trọng nhất, bởi vì chung cuộc bạn phải đối diện
với nó. Và khoảnh khắc bạn đối diện với cái không thể biết được, bạn phải nhận
ra dốt nát của mình, bạn phải trở thành đứa trẻ nhỏ lần nữa.
Socrates tương
truyền đã nói, "Khi tôi còn trẻ tôi đã nghĩ tôi biết mọi thứ." Và ông
ấy là một trí thức vĩ đại. "Khi tôi già hơn một chút tôi đã không chắc chắn
thế, càng già thêm chút nữa và càng không chắc chắn thêm, già thêm chút nữa và
bây giờ tôi có thể nói chắc chắn rằng tôi chẳng biết gì cả."
Và trước khi chết
ông ấy nói, "Chỉ mỗi một điều tôi biết, đó là tôi chẳng biết gì cả."
Đây là phát biểu từ người có một trong những trí tuệ tinh tuý nhất; nhưng ông ấy
có cái gì đó còn hơn, cao hơn và sâu hơn trí tuệ, và đó là trực giác.
Tôi không phải
là con người của trí tuệ, bởi vì toàn thể công việc của tôi là với cái không thể
biết. Phương pháp của khoa học là trí tuệ, phương pháp của thế giới nội tâm là
trực giác. Trí tuệ là tuyệt đối vô nghĩa.
Khi bạn bắt đầu
đi vào nội tâm, vào sâu hơn trong thiền, nhận biết, ý thức, bạn sẽ trở thành
ngày một nhận biết hơn về điều bí ẩn, điều huyền bí, và bạn sẽ trở nên nhận biết
về sự kiện rằng sự tồn tại về cơ bản là cái không thể biết. Chúng ta có thể biết
chút ít và mẩu mảnh đây đó và thế là đủ cho cuộc sống thực tế của chúng ta
nhưng bạn càng đi sâu hơn bạn bao giờ cũng bắt gặp bức tường.
Đã có thời một
thế kỉ trước đây các nhà khoa học còn rất lạc quan bởi vì khoa học đã đi tới biết
ngày một nhiều hơn. Nhưng sau Albert Einstein mọi sự đã thay đổi hoàn toàn.
Albert Einstein đã đi tới chỗ sâu nhất, chính bên trong của vật chất, và đã bị
phân vân bởi vì điều ông ấy đi tới hiểu ra lại bí ẩn, phi logic đến mức ngay cả
làm ra lí thuyết khoa học từ nó cũng dường như là không thể được.
Một điều là ở
chỗ khi nguyên tử được phân chia thành điện tử, Einstein đã trở nên nhận biết rằng
điện tử không di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Chúng đơn giản, từ điểm A, biến
mất và xuất hiện tại điểm B - chúng không đi ở giữa. Bạn không có dấu vết chút
nào về việc du hành của chúng, không vết tích. Làm sao mà giải thích được điều
đó? Điều đó tới gần ảo thuật hơn là khoa học; điều đó tới gần những kinh nghiệm
lớn của các thiền nhân hơn là khoa học.
Khi tôi đọc điều
này tôi đã nhớ tới một trong các thiền nhân vĩ đại: Basho nói, "Trên đường
của chân lí không có con đường nào cả. Điều đó cũng giống như chim bay trên trời,
nó không để lại dấu vết nào đằng sau nó." Tất nhiên trong không trung
không dấu vết nào có thể được để lại. Tôi đơn giản nhớ tới từ 'nó không để lại
dấu vết nào đằng sau nó.'
Và Albert
Einstein thấy điện tử di chuyển từ điểm A sang điểm B và ở giữa không có dấu vết.
Không vết tích nào. Cứ dường như chúng biến mất từ điểm này và xuất hiện tại điểm
khác - điều tuyệt đối phi logic. Điều đó gây rắc rối cho Albert Einstein trong
nhiều ngày để tuyên bố với những người bạn khoa học của mình rằng ông ấy đã bắt
gặp một hiện tượng vượt ra ngoài trí tuệ. Nhưng ông ấy có thể làm được gì? Đây
là cách thức sự tồn tại đang hành xử và sự tồn tại không có nghĩa vụ phải hoàn
thành các yêu cầu của chúng ta về trí tuệ, logic, nhất quán. Chúng ta phải đi
cùng sự tồn tại; sự tồn tại không định đi cùng chúng ta.
Những nghiên cứu
khoa học mới nhất đã trở nên ngày một bí ẩn hơn và đây là một trong những hi vọng
lớn nhất, rằng chẳng bao lâu nữa chúng ta có thể tạo ra một khoa học duy nhất.
Không cần tôn giáo và không có nhu cầu về khoa học - một khoa học với hai cánh.
Cánh bên trong là bí ẩn và cánh bên ngoài cũng bí ẩn. Bây giờ điều đó là có thể
bởi vì cả hai đang đi vào trong khu vực của bí ẩn.
Điều đó đã xảy
ra nhiều lần nhưng mọi người không chú ý tới nó bởi vì nó hiếm thế.
Bạn phải đã từng
nghe đến cái tên của Bà Curie - bà ấy là một trong những nhà khoa học được giải
thưởng Nobel - và bà ấy đã làm việc trên vấn đề khoa học trong nhiều năm mà chẳng
đi đến đâu cả. Một đêm bà ấy làm việc muộn và đã thực sự mệt mỏi và chán ngán với
vấn đề - bà ấy gần như sắp vứt bỏ ý niệm đó và bắt đầu một dự án khác nào đó.
Phỏng có ích gì mà phí thời gian về cái gì đó đã tiêu tốn tới bốn hay năm năm
cuộc đời mà bà ấy vẫn chỉ ở chỗ bà ấy đã bắt đầu - không một thoáng nhìn, không
một manh mối. Và cuộc đời thì ngắn; bạn không thể phí hoài toàn bộ cuộc sống của
mình vào một vấn đề khoa học.
Đêm đó bà ấy đi
ngủ trong khi nghĩ, "Ngày mai mình sẽ đem đốt tất cả các giấy tờ mà mình
đã viết ra trong năm năm này - mình bị kết thúc với nó rồi." Đến sáng khi
bà ấy thức dậy bà ấy ngạc nhiên, bà ấy không thể nào tin được vào điều đó. Trên
bàn mình, trong cuốn sổ tay còn để mở của mình, bà ấy đã bỏ lại đêm hôm trước,
câu trả lời đã được viết ra. Và điều gây phân vân nhất là ở chỗ căn phòng bị
khoá kín từ bên trong; không ai đã vào. Chồng bà ấy cũng là một nhà khoa học
nhưng nếu bà Curie đã không thể giải quyết được vấn đề này trong năm năm thì
ông ấy không thể xoay xở được chỉ trong một đêm. Và hơn nữa, ông ấy lại không
có nhà, ông ấy đã đi công tác.
Khi bà ấy nhìn
kĩ hơn điều đó lại càng trở nên mỗi lúc một bí ẩn hơn - chữ viết là của bà ấy.
Thế rồi bà ấy nhắm mắt và cố gắng nhớ lại điều đã xảy ra, và thế rồi toàn bộ
khung cảnh tự nó lộ ra...
Bây giờ bà ấy
nhớ rằng trong đêm bà ấy đã có giấc mơ. Bà ấy đã đã đi ra bàn, viết ra câu trả
lời, quay trở lại giường và quên hết về điều đó. Đấy không phải là giấc mơ, đấy
là thực tại, bởi vì cuốn sổ và câu trả lời là bằng chứng rằng bà ấy đã không
mơ, nhưng từ đâu mà câu trả lời này tới? Bởi vì không có gì khác trên trang giấy,
chỉ mỗi câu trả lời.
Điều đó không
phải là từ trí tuệ của bà ấy - từ trí tuệ bà ấy đã từng làm việc trong năm năm.
Nhưng bởi vì bà ấy đã mệt mỏi trí tuệ nói, "điều đó ở ngoài mình." Bà
ấy đã ngủ với ý niệm này rằng "Mình bị kết thúc với nó" - đây là quyết
định của trí tuệ và trong những khoảnh khắc như vậy trực giác kế tục. Trực giác
nắm quyền chỉ khi trí tuệ bị kết thúc. Trí tuệ là để dành cho thực tại thấp -
cho thế giới trần tục. Trực giác là dành cho thực tại cao, cho điều bí ẩn, cho
điều huyền bí.
Thế rồi bà ấy
đã đi ngược từ câu trả lời cho toàn bộ quá trình và đã thấy rằng câu trả lời là
đúng. Điều này là tương tự, đích xác tương tự với trường hợp của Phật Gautam.
Nhưng không ai đã từng so sánh hai quá trình này.
Phật Gautam đã
trở nên chứng ngộ vào cái đêm khi ông ấy đã quyết định vứt bỏ mọi nỗ lực. Ông ấy
đã mệt mỏi, ông ấy đã làm đủ mọi thứ mà thầy bảo, thầy giáo bảo, kinh sách bảo,
và ông ấy đã làm mọi thứ một cách tốt nhất mà chẳng cái gì xảy ra cả. Mười hai
năm đã trôi qua từ khi ông ấy rời bỏ cung điện mà tay ông ấy vẫn trống rỗng như
xưa. Lúc đó là đêm trăng tròn, ngồi dưới gốc cây ông ấy đã quyết định rằng toàn
bộ việc tìm kiếm là vô ích - 'Mình được chấm dứt với nó.'
Với cùng thái độ
như bà Curie đi vào giường, phật đi ngủ dưới gốc cây. Và vào buổi sáng khi ông ấy
mở mắt ra, khi mặt trời đã lên, ông ấy kinh ngạc nhìn ra thế giới. Nó không phải
là thế giới mà ông ấy đã ngủ trong đó. Đây không phải là con mắt mà ông ấy đã
đi ngủ cùng - ông ấy đã có con mắt mới và thế giới mới. Nó chói sáng, nó là điều
bí ẩn ở khắp nơi. Và mọi lo âu của ông ấy đã biến mất, mọi hỏi han đã biến mất
- có im lặng tuyệt đối và thanh bình mênh mông.
Lần đầu tiên
ông ấy cảm thấy mình ở nhà, ông ấy đã đạt tới - bây giờ chẳng còn đâu mà đi, mục
đích đã đạt được. Trí tuệ đã làm việc trong mười hai năm - mệt mỏi, nó bị vứt bỏ
ra khỏi con đường, nhường chỗ cho trực giác bước vào; và điều không thể được
cho trí tuệ không phải là không thể được cho trực giác.
Với trực giác
cách tiếp cận là khác toàn bộ, nó là cách tiếp cận hồn nhiên không logic. Nó là
cách tiếp cận của trẻ con khi được sinh ra và mở mắt ra lần đầu tiên. Nó chẳng
biết gì nhưng nó nhìn mọi thứ, mặc dầu nó không thể nói, "Tường là gì, cột
là gì, mọi người là gì và con vật là gì?" - nó không thể phân biệt được.
Nhưng nó đang thấy mọi thứ. Nó không thể mô tả, nó không có lời nhưng điều đó
không có nghĩa là nó không thấy. Trực giác là việc thấy thuần khiết - nó không
phải là quá trình, nó là bước nhảy lượng tử.
Tôi không phải
là con người của trí tuệ. Tôi đã bỏ nó ở xa, xa lắm rồi. Bất kì điều gì tôi
đang nói với các bạn đều là kinh nghiệm trực giác của tôi. Đó là lí do tại sao
bạn có thể thấy trong những phát biểu của tôi nhiều điều không nhất quán bỏi vì
trực giác không biết tới không nhất quán, không mâu thuẫn; nhưng khi bạn nghĩ về
những thực tại đó bằng trí tuệ bạn đang nhìn từ góc độ hoàn toàn khác, với
phương pháp luận hoàn toàn khác - điều đó tạo ra rắc rối. Bạn lập tức thấy đây
là không nhất quán, đây là mâu thuẫn. Bất kì ai đã hỏi câu hỏi này đều chẳng biết
gì về trí tuệ và chẳng biết gì về phân biệt cả. Bởi vì để biết về trí tuệ và biết
về phân biệt bạn phải cao hơn cả hai điều đó - chỉ từ đỉnh cao đầy ánh nắng mặt
trời bạn mới có thể thấy những thực tại thấp hơn.
Câu hỏi này đã
được nêu hôm qua nữa và tôi đã chọn trả lời nó nhưng bởi vì thời gian hết nên
tôi đã bỏ nó. Tôi ngạc nhiên là hôm nay nó có khác - nó không đích xác là cùng
câu hỏi như nó ngày hôm qua. Bạn không thể lừa tôi được và bạn đừng bao giờ nên
thử điều đó: hôm qua nó còn ngu xuẩn hơn và người này phải đã nghĩ đi nghĩ lại
làm sao nói nó theo cách tốt hơn cho nên nó bớt ngu xuẩn đi. Nhưng ngu xuẩn vẫn
cứ là ngu xuẩn thôi. Điều đó chẳng tạo ra khác biệt.
Hôm qua nó đã
là, "Osho ơi, thầy là người khổng lồ về trí tuệ nhưng thầy biết phân biệt."
Người này phải
đã nghĩ 'người khổng lồ về trí tuệ' và 'không có khả năng phân biệt' có vẻ hiển
nhiên vô nghĩa, bởi vì chức năng của trí tuệ là phân biệt. Và nếu bạn là người
khổng lồ về trí tuệ, thế thì toàn thể công việc của bạn là phân biệt; phân biệt
rất tinh tế và rất tinh vi.
Nhưng bạn đã
làm tốt khi bỏ đi chữ 'người khổng lồ' bởi vì tôi không phải là người khổng lồ,
tôi là một người đơn giản. Thậm chí bạn còn hay hơn nữa nếu bạn bỏ từ 'trí tuệ'.
Nếu như bạn đã nói, "Osho ơi, thầy không phải là con người của trí tuệ,"
tôi chắc sẽ đánh giá cao hiểu biết của bạn. Tôi không thế.
Nhưng bạn đã đặt
vào từ 'trí tuệ' bởi vì bạn đã muốn tạo ra vấn đề về phân biệt. Nếu bạn chấp nhận
tôi không phải là con người của trí tuệ thế thì chẳng có vấn đề rằng tôi không
phải là con người của phân biệt - câu hỏi đó không thể được tạo ra. Chỉ công bố
rằng tôi không phải là con người của phân biệt, một cách không chủ ý bạn phải
chấp nhận tôi như con người của trí tuệ.
Không cần đâu.
Bạn có thể đơn giản nói, "Osho ơi, thầy không phải là con người của phân
biệt," và tôi không là người vậy. Tôi không phân biệt giữa bạn và thù, giữa
đàn ông và đàn bà, giữa da trắng và da đen, giữa người Hindu và người Mô ha mét
giáo, giữa quốc gia này và quốc gia kia; tôi không phân biệt theo bất kì cách nào.
Tất cả những phân biệt này đều là tội ác cả.
Tất cả những
phân biệt này đều phải bị loại bỏ và đây không phải là lần đầu tiên mà điểm này
đã được nêu ra cho tôi. Vào những dịp khác, bởi những người khác, theo những lí
do khác, điều đó đã được trỏ vào tôi.
Tôi muốn nói với
bạn vài điểm để cho bạn có thể hiểu cái gì đang sôi trong vô thức của bạn.
Một trong các vị
chủ tịch quốc hội ở Ấn Độ, U.N. Dhebar, đã dự trại của tôi và chắc phải đã
không có khó khăn gì, nhưng một hôm ông ấy bảo tôi, "Osho ơi, ông là người
kế tục thực về ý thức hệ của Mahatma Gandhi, mặc dầu ông chưa bao giờ ở cùng với
Mahatma Gandhi cả. Ông chưa bao giờ được liên kết với chủ nghĩa Gandhi, nhưng nếu
ông bắt đầu thuyết giảng về chủ nghĩa Gandhi, thế thì nó có thể được cứu khỏi
chết đấy."
Tôi nói,
"Đáng lẽ tốt hơn nếu ông đã không nói điều này, bởi vì tôi ghét là kẻ kế tục
của bất kì ai và tôi ghét tuyên truyền cho triết lí của bất kì ai khác."
Và ngày hôm đó
tôi phê phán Mahatma Gandhi ở nhiều điểm. Tôi sẽ chẳng bao giờ bận tâm bởi vì có
hàng triệu người trên thế giới này; tôi không định phê phán mọi người, chẳng có
thời gian cho điều đó. Nhưng U.N. Dhebar chỉ tôi hướng theo Mahatma Gandhi, cho
nên ông ấy chịu trách nhiệm, ông ấy đang có mặt đấy.
Sau cuộc họp
này tôi hỏi ông ta, "Nếu ông có điều gì cần nói, ông có thể nói điều đó
cho tôi bây giờ hay ông có thể nói điều đó trong cuộc họp tiếp trước mọi người.
Tôi sẵn lòng có cuộc thảo luận công khai về điều đó bởi vì tôi nghĩ rằng chủ
nghĩa Gandhi nên chết để Ấn Độ sống. Nếu chủ nghĩa Gandhi tiếp tục thế thì Ấn Độ
sẽ phải chết. Và nếu tôi phải lựa giữa hai điều này tôi sẽ chọn Ấn Độ sống
- Gandhi đã chết
rồi. Chẳng thành vấn đề liệu chủ nghĩa Gandhi cũng chết hay không. Ai quan
tâm?"
Ông ấy nói,
"Không, tôi không thể thảo luận về điều đó ở chỗ công cộng được. Tôi hiểu
điều ông nói là đúng, nhưng ông nên phân biệt hơn."
Tôi nói,
"Ông là một chính khách, tôi không là chính khách. Chính khách phải phân
biệt, nhưng sao tôi phải phân biệt?"
Ông ấy nói,
"Tôi đơn giản bảo ông rằng ông sẽ được nhiều người theo trong số những người
theo Gandhi nhưng nếu ông nói những điều chống lại Gandhi tất cả những người
này sẽ bỏ đi. Họ sẽ không bỏ chủ nghĩa Gandhi, họ sẽ bỏ ông. Đó là lí do tại
sao tôi lại nói ông nên phân biệt hơn. Khi ông đưa ra bất kì phát biểu nào, ông
nên đợi và xem liệu điều đó sẽ lợi cho ông hay chống lại ông." Và ông ấy
đang cho lời khuyên bạn bè. Nhưng điều ông ấy thực sự ngụ ý cho phân biệt là
ngoại giao. Tôi không phải là nhà ngoại giao.
Tôi nói,
"Tôi sẽ nói bất kì cái gì mà tôi cảm thấy là điều đúng, dù bất kì hậu quả
nào."
Tôi đã mất nhiều
tín đồ trong ba mươi năm này theo cùng cách. Khi tôi phê bình Gandhi, tất cả mọi
người cộng sản và người xã hội bắt đầu tới gần tôi hơn; họ nghĩ rằng tôi phải
là người cộng sản. Ai khác sẽ phê phán Gandhi? Chủ tịch đảng cộng sản bảo tôi,
"Chúng tôi có thể được ông giúp đỡ vô cùng bởi vì chúng tôi không có người
nào có sức thu hút như ông, người có thể ảnh hưởng tới quần chúng."
Nhưng tôi nói,
"Đợi đã. Tôi đã không nói chống lại Gandhi bởi vì tôi là người cộng sản -
bây giờ ông đã tạo ra rắc rối khác, tôi sẽ phải nói chống lại chủ nghĩa cộng sản."
Và lần nữa lại
cùng lời khuyên: "Không, Osho, ông phải rất phân biệt. Những người này có
thể có ích vô cùng cho ông. Đảng cộng sản là đảng có tổ chức nhất trong cả nước
và nếu họ ở đằng sau ông, công việc của ông..."
Tôi nói,
"Quên mọi chuyện về công việc đi. Trước hết để tôi kết thúc người cộng sản
đã bởi vì họ đã tới với hiểu lầm và tôi không muốn bất kì ai ở cùng tôi với bất
kì hiểu lầm nào." Và tôi phải phê phán chủ nghĩa cộng sản chỉ bởi vì ham
muốn của họ.
Và điều này đã
xảy ra một cách chính trị, xã hội, tôn giáo... Tôi đã có những người yêu tôi
trong mọi tôn giáo. Có các giáo sĩ đã viết thư cho tôi, rằng "Thầy đã làm
cho chúng tôi hiểu về tôn giáo riêng của mình, thầy đã cho chúng tôi sáng suốt
mới, nhưng thế rồi thật kì lạ đôi khi thầy lại bắt đầu phê phán. Thầy nên phân
biệt hơn, chỉ nói những điều tốt về mọi người thế thì thầy sẽ có hàng triệu tín
đồ. Và phỏng có ích gì mà khơi ra những cái không đúng."
Ý định của họ
là tốt nhưng điều họ đang nói cho tôi là về cơ bản tôi phải là một chính khách.
Trên đường tới
Nepal, tại Delhi, các bạn bè đã tụ tập và nói, "Trước khi thầy đi Nepal
chúng tôi phải nói đôi điều: một, đừng nói chống lại Hindu giáo ở đó!" Tôi
nói, "Tại sao?" Tôi đã không nhận biết, tôi có thể đã không nói về
Hindu giáo chút nào.
Họ nói, "Đấy
là vương quốc Hindu và hiến pháp dựa trên Hindu giáo. Hiến pháp tuyên bố đây là
vương quốc Hindu duy nhất trên thế giới. Cho nên tránh điều đó ra."
Tôi nói,
"Bây giờ điều ấy sẽ thành khó khăn. Nếu các bạn muốn tôi tránh điều đó các
bạn không nên nhắc tới nó. Các bạn nên phân biệt hơn - tôi không thể thế được!"
Tôi chưa bao giờ
ngoại giao cả, tôi chưa bao giờ chính trị cả. Tôi chỉ nói điều mình cảm thấy
đúng vào khoảnh khắc được nói ra. Tôi không nghĩ về khoảnh khắc tiếp.
Tôi đã nói về mọi
tôn giáo. Tôi đã nói về cái đẹp của chúng, về cái vĩ đại của chúng, về những
chuyến bay cao của niềm cực lạc của chúng, và từ mọi tôn giáo mọi người đã tới
tôi; nhưng khoảnh khắc tôi chỉ cho họ rằng cũng có chỗ tối nữa, rằng những khoảnh
khắc nhỏ bé của cực lạc này và những chuyến bay vào những vùng cao hơn của tâm
thức là rất ít... Toàn bộ lịch sử của các bạn đầy những đổ máu, giết chóc, sát
hại, thiêu người sống. Tôi không thể chỉ cứ ca ngợi mãi vài điểm tốt đó điều
liên quan tới chỉ vài người tốt. Tôi sẽ phải nói toàn bộ sự việc. Và chín mươi
chín phần trăm là rác rưởi. Nếu tôi không nói điều đó thế thì tôi đang phạm tội
chống lại bản thân chân lí.
Cho nên tôi
không phải là con người của trí tuệ - bạn đúng. Và tôi không biết cách phân biệt
- bạn đúng. Nhưng tôi hoàn toàn hạnh phúc và hài lòng như tôi đang thế, còn bạn
thì không. Trước khi nói bất kì cái gì về lời khuyên bao giờ cũng nghĩ tới người
bạn đang nói về điều đó.
Tôi tuyệt đối
mãn nguyện. Tôi thậm chí chẳng cần thêm một khoảnh khắc nữa để sống. Ngay cả chết
cũng sẽ được đón chào ngay bây giờ bởi vì tôi biết không có chết. Chỉ có chân
lí. Và một khi bạn đã kinh nghiệm nó, cái gì xảy ra cho bạn, cái gì xảy ra cho
thân thể bạn, chẳng thành vấn đề nữa, bởi vì chẳng cái gì có thể làm thay đổi
được khí hậu bên trong của bạn, phúc lạc bên trong, cái đẹp bên trong. Điệu vũ
bên trong cứ tiếp tục diễn ra mặc tất cả mọi cái khác.
Làm sao thiền
nhân biết rằng mình đang đi lên cao hơn và sâu hơn, hay liệu mình có bị kẹt ở
đâu đó không?
Điều đó rất đơn
giản. Trước hết, có những phẩm chất phát triển lên khi thiền đi sâu. Chẳng hạn,
bạn bắt đầu cảm thấy yêu mà chẳng có lí nào cả. Không phải là tình yêu mà bạn
biết đâu, trong đó bạn phải đổ - không đổ trong yêu. Nhưng chỉ một phẩm chất của
việc yêu, không chỉ với con người. Khi thiền của bạn đi sâu hơn, tình yêu của bạn
sẽ bắt đầu lan rộng ra ngoài nhân loại tới con vật, tới cây cối, thậm chí tới tảng
đá, tới núi non.
Nếu bạn cảm thấy
rằng cái gì đó bị bỏ ra khỏi tình yêu của mình - điều đó có nghĩa là bạn bị mắc
kẹt. Việc yêu của bạn phải lan toả tới toàn thể sự tồn tại. Khi việc thiền của
bạn lên cao hơn, những phẩm chất thấp của bạn sẽ bắt đầu bị rơi rụng đi. Bạn
không thể xoay xở có cả hai được. Bạn không thể giận dữ dễ dàng như bạn bao giờ
cũng vậy. Dần dần, dần dần, bạn trở thành không thể nào giận dữ được nữa. Bạn
không thể dối trá, lừa lọc, khai thác theo bất kì cách nào.
Bạn không thể tổn
thương được. Hình mẫu hành vi của bạn sẽ thay đổi với thay đổi tâm thức bên
trong của bạn.
Bạn sẽ không
rơi vào những khoảnh khắc buồn bã mà bạn vẫn thường rơi vào - thất vọng, thất bại,
buồn rầu, cảm giác về vô nghĩa, lo âu, phiền não; tất cả những điều này dần dần,
dần dần trở thành kẻ xa lạ.
Một khoảnh khắc
tới khi cho dù bạn muốn nổi giận, bạn sẽ thấy điều đó là không thể được; bạn đã
quên mất ngôn ngữ của giận dữ. Tiếng cười sẽ trở thành dễ dàng hơn. Khuôn mặt bạn,
đôi mắt bạn, sẽ ánh lên ánh sáng bên trong nào đó. Bạn sẽ tự cảm thấy rằng bạn
đã trở thành ánh sáng, dường như lực trọng trường không vận hành như nó vẫn vận
hành trước đây. Bạn đã mất sự nặng nề, bởi vì tất cả những tính cách đó đều rất
nặng nề - giận dữ, buồn bã, thất vọng, tinh ranh. Tất cả những cảm giác này là
rất nặng nề. Bạn không biết, nhưng chúng đang làm cho bạn nặng lòng và chúng
cũng làm cho bạn thành khắc khổ.
Khi thiền của bạn
phát triển bạn sẽ cảm thấy bản thân mình trở nên dịu dàng, mong manh - cũng như
tiếng cười sẽ trở thành dễ dàng cho bạn, nước mắt sẽ trở thành dễ dàng cho bạn.
Những nước mắt này sẽ không là của nỗi buồn hay tủi. Những nước mắt này sẽ là của
vui vẻ, phúc lạc; những nước mắt này sẽ là của biết ơn, của cám ơn. Những nước
mắt này sẽ nói lên điều mà lời không thể nói được; những nước mắt này sẽ là lời
cầu nguyện của bạn.
Và lần đầu tiên
bạn sẽ biết rằng nước mắt không chỉ để bầy tỏ nỗi đau của bạn, nỗi khổ của bạn,
phiền não của bạn; đó là cách chúng ta đã dùng chúng. Nhưng chúng có mục đích lớn
lao hơn nhiều để hoàn thành: chúng đẹp vô cùng khi chúng tới như cách diễn đạt
của cực lạc.
Và bạn sẽ thấy,
về toàn thể, sự mở rộng - rằng bạn đang mở rộng, bạn đang trở nên ngày một lớn
hơn. Không theo nghĩa của bản ngã mà theo nghĩa là tâm thức của bạn đang lan toả,
theo nghĩa là nó đang đem mọi người vào trong khu vực của nó, theo nghĩa là tay
bạn đang ngày càng trở nên lớn hơn và ôm choàng lấy mọi người, theo nghĩa là
khoảng cách đang rơi rụng đi, theo nghĩa là ngay cả những vì sao xa xăm cũng là
gần, bởi vì tâm thức của bạn bây giờ có cánh.
Và những điều này
rõ ràng và chắc chắn đến mức câu hỏi hay hoài nghi chẳng bao giờ nảy sinh. Nếu
hoài nghi nảy sinh điều đó nghĩa là bạn bị mắc kẹt; thế thì tỉnh táo hơn đi, thế
thì dồn năng lượng của bạn mãnh liệt hơn vào thiền. Nhưng nếu những điều này tới
mà không có câu hỏi nào...
Đây là một thế
giới kì lạ: nếu bạn khổ, nếu bạn phiền não, chẳng ai nói với bạn rằng ai đó đã
tẩy não bạn, ai đó đã thôi miên bạn. Nhưng nếu bạn mỉm cười, nhảy múa vui vẻ
trên phố, hát bài hát, mọi người sẽ bị sốc. Họ sẽ nói, "Anh làm gì vậy? Ai
đó đã tẩy não anh sao - anh có bị thôi miên hay có phát điên không đấy?"
Trong thế giới
kì lạ này phiền não được chấp nhận là tự nhiên. Đau khổ được chấp nhận là tự
nhiên. Tại sao? Bởi vì bất kì khi nào bạn trong phiền não và bất kì khi nào bạn
khổ bạn làm cho người khác cảm thấy hạnh phúc là người đó không khổ đến thế,
người đó không bất hạnh đến thế. Bạn cho người đó một cơ hội để bầy tỏ thông cảm
với bạn, và thông cảm chẳng tốn kém gì.
Nhưng nếu bạn
phúc lạc thế, hạnh phúc thế, thế thì người đó không thể nào cảm thấy bản thân
mình hạnh phúc hơn bạn được; bạn đang đặt người đó xuống dưới. Người đó cảm thấy
cái gì đó sai với người đó. Người đó phải kết án bạn, bằng không thì người đó
phải nghĩ về bản thân mình, điều người đó sợ nghĩ tới. Mọi người đều sợ nghĩ về
bản thân mình bởi vì điều đó có nghĩa là thay đổi, biến đổi, trải qua những quá
trình nào đó.
Dễ dàng chấp nhận
mọi người với bộ mặt buồn, rất khó chấp nhận mọi người với tiếng cười.
Đáng phải không như vậy. Trong một thế
giới tốt hơn, trong một thế giới với nhiều người có ý thức hơn, nó không nên
như vậy, nó nên là điều đối lập lại - rằng khi bạn phiền não mọi người sẽ bắt đầu
hỏi bạn, "Có chuyện gì vậy, điều gì đã đi sai?" Và khi bạn hạnh phúc
và bạn nhảy múa bên đường, nếu ai đó đi qua, người đó có thể cùng tham gia với
bạn, người đó có thể nhảy múa cùng bạn, hay người đó ít nhất cũng cảm thấy hạnh
phúc khi xem bạn nhảy múa. Nhưng người đó sẽ không nói bạn điên, bởi vì nhảy
múa không phải là điên, hát không phải là điên, vui vẻ không phải là điên; khổ
là điên. Nhưng điên khùng được chấp nhận.
Với thiền của bạn
phát triển, bạn phải nhận biết rằng bạn sẽ tạo ra biết bao nhiêu người chỉ
trích quanh bạn, những người sẽ nói, "Cái gì đó đi sai với anh rồi. Chúng
tôi đã thấy anh mỉm cười khi anh ngồi một mình. Tại sao anh mỉm cười? Điều này
là không lành mạnh." Buồn bã là lành mạnh, nhưng mỉm cười, điều đó không
lành mạnh.
Mọi người sẽ thấy
khó nếu họ xúc phạm bạn và bạn không phản ứng. Bạn đơn giản nói 'cám ơn' và cứ
theo đường của mình. Điều này là khó nhận bởi vì nó xúc phạm sâu sắc bản ngã của
người đó. Người đó muốn lôi bạn xuống chỗ cặn bã còn bạn từ chối; bây giờ người
đó một mình nơi cặn bã. Người đó không thể tha thứ cho bạn được.
Cho nên nếu những
điều này bắt đầu xảy ra bạn có thể chắc chắn bạn đang trên đường đúng. Và chẳng
mấy chốc những người của hiểu biết, những người của kinh nghiệm, sẽ bắt đầu thấy
những thay đổi trong bạn. Họ sẽ bắt đầu hỏi bạn điều gì đã xảy ra cho bạn, làm
sao điều đó đã xảy ra cho bạn. "Chúng tôi cũng muốn điều đó xảy ra cho
chúng tôi." Ai muốn khổ? Ai muốn vẫn còn liên tục bị hành hạ bên trong?
Khi thiền của bạn
đi sâu mọi điều này sẽ xảy ra: ai đó sẽ kết án bạn, ai đó sẽ coi bạn là điên,
ai đó, người có hiểu biết nào đó, sẽ hỏi bạn, "Điều gì đã xảy ra cho anh
và làm sao điều đó có thể xảy ra cho tôi được?"
Bạn vẫn còn định
tâm, bắt rễ, tiếp đất trong bản thể mình - bất kì cái gì xảy ra xung quanh đều
không thành vấn đề. Bạn phải trở thành trung tâm của cơn xoáy lốc. Và bạn sẽ biết
khi nào bạn đã trở thành trung tâm của cơn xoáy lốc. Không cần phải hỏi,
"Làm sao chúng tôi sẽ biết?" Làm sao bạn biết khi nào mình đau đầu? Bạn
đơn giản biết.
Một trong các
thầy giáo của tôi ở trường phổ thông là một người rất kì cục. Ngày đầu tiên vào
lớp ông ấy nói với chúng tôi, "Nhớ lấy một điều: đau đầu tôi không tin,
đau bụng tôi không tin, tôi chỉ tin vào những thứ tôi có thể thấy được. Cho nên
nếu các trò muốn không ở trường vào bất kì ngày nào, đừng nêu ra cớ đau đầu,
đau bụng vân vân; các trò phải đem cái gì đó thực đến chỉ cho tôi."
Và ông ấy được
coi là một người rất nghiêm khắc. Rất khó xin phép ra ngoài dù chỉ một giờ. Tại
ngay trước nhà ông ấy có hai cái cây kadamba - những cây rất đẹp. Vào lúc tối
ông ấy hay đi dạo và trời lúc đó gần như tối khi ông ấy trở về.
Cho nên ngày đầu
tiên tôi nói, "Chuyện này phải được giải quyết." Tôi trèo lên một
trong những cây này và khi ông ấy tới dưới gốc cây, tôi thả một hòn đá vào đầu
ông ấy. Ông ấy la lên, quát lên. Tôi tụt xuống. Tôi nói, "Có chuyện gì vậy?"
Ông ấy nói, "Đau quá, mà trò lại hỏi có chuyện gì."
Tôi nói,
"Thầy phải chỉ nó ra chứ. Chừng nào thầy còn chưa chỉ nó cho em thì em sẽ
không tin vào điều đó. Em là học trò của thầy! Và đừng bao giờ nói tới điều này
cho bất kì ai - em không muốn ngày mai thầy gọi em lên phòng hiệu trưởng bởi vì
thầy sẽ gặp rắc rối. Thầy sẽ phải chỉ ra cái đau của thầy, thầy sẽ phải đặt nó
lên bàn, bằng không thì nó chỉ là hư huyễn; thầy đã bịa ra nó; nó là tưởng tượng.
Tại sao em phải trèo lên cây trước nhà thầy? Em chưa bao giờ làm điều đó trong
cả đời em. Bỗng nhiên em phát điên sao?"
Ông ấy nói,
"Nghe đây, tôi hiểu điều em muốn tôi hiểu, nhưng đừng nói cho ai cả. Nếu
em đau đầu tôi sẽ chấp nhận điều đó, nhưng đừng bảo bất kì ai bởi vì đó là
nguyên tắc cả đời tôi. Nay tôi làm ra một ngoại lệ."
Tôi nói,
"Thế thì được. Em không bận tâm về bất kì ai khác. Xin thầy hiểu cho rằng
khi em giơ tay, hoặc đó là đau đầu, hoặc đó là đau bụng - cái gì đó không thấy
được. Thầy phải để em ra."
Cả lớp ngạc
nhiên: "Chuyện gì thế này? Khoảnh khắc cậu giơ tay lên, thầy đơn giản nói
"Ra đi! Ra ngay lập tức!" Và cả ngày cậu thoát khỏi hành hạ của ông ấy.
Nhưng ý nghĩa của việc giơ tay đó là gì, nó có nghĩa gì? Và tại sao ông ấy lại
bị xúc động thế?"
Bạn sẽ biết; điều
đó còn sâu hơn nhiều so với đau đầu, sâu hơn nhiều so với đau bụng, sâu hơn nhiều
so với đau tim. Nó là cái đau linh hồn, bạn sẽ biết nó.
Hỏi: Chứng kiến và nhạy cảm có phải là hai mặt của cùng đồng
tiền không?
Đáp: Chúng
không phải là hai mặt của cùng một đồng tiền đâu - chứng kiến và nhạy cảm.
Nhưng nhạy cảm là một trong những phẩm chất phát triển lên trong bạn cùng với
chứng kiến. Các phẩm chất khác cũng phát triển. Với chứng kiến bạn gần như trở
thành một khu vườn - nhiều hoa và nhiều hương thơm phát triển trong bạn.
Chứng kiến trở
thành chính cơ sở của biến đổi. Bạn càng thấy tâm trí mình, bạn càng chứng kiến
nó, bạn sẽ càng thấy nó ít đi. Nó cần vô ý thức để có đó. Nó là con vật chỉ tồn
tại trong bóng tối. Khi bạn đem ánh sáng vào, tâm trí cùng các ý nghĩ của nó biến
mất.
Và chính sự dầy
đặc ý nghĩ làm cho bạn không nhạy cảm. Khi không có ý nghĩ và bạn đơn giản là
nhân chứng, chỉ là tấm gương, thế thì nhạy cảm của bạn là vô hạn. Thế thì bất
kì cái gì tới trước bạn đều được phản xạ lại toàn bộ. Thế thì bạn thấy cùng
bông hồng với cái nhìn hoàn toàn khác: thế thì nó trở thành toả sáng, thế thì
nó toả ra không chỉ màu sắc mà cả tia sáng. Thế thì nó trở thành không chỉ là vật
chất mà là hiện tượng năng lượng.
Tạu Liên Xô một
nhà chụp ảnh khoa học, Kirlian, đã chụp ảnh năng lượng bao quanh mọi thứ. Ông
ta đã phát triển tấm ảnh nhạy tới mức khi bạn chụp ảnh bông hồng bạn cũng thấy
trong ảnh vầng hào quang ánh sáng bao quanh nó. Nó cũng vậy với ảnh chụp người,
và mọi người đều có hào quang mầu sắc khác nhau. Cho nên ý niệm cổ đại về hào
quang bây giờ tìm thấy sự hỗ trợ khoa học.
Người chứng ngộ
sẽ có hào quang trắng. Người như Adolf Hitler hay Joseph Stalin sẽ có hào quang
đen, và giữa hai loại người này - hào quang đen và trắng - sẽ là toàn thể nhân
loại. Mầu sắc khác nhau, đôi khi mầu sắc trộn lẫn, và tất cả các mầu đó chỉ ra
nơi bạn đang ở, nơi bạn đang ở bên trong.
Khi bạn trở
thành nhân chứng bạn trở thành tấm gương nhạy cảm, còn nhạy cảm hơn tấm ảnh của
Kirlian. Bạn sẽ thấy mọi thứ trong ánh sáng hoàn toàn mới - vẫn cùng mọi thứ ấy,
cùng thế giới ấy, nhưng trong ánh sáng hoàn toàn khác. Những thứ thông thường bắt
đầu có cái đẹp phi thường. Chỉ đá cuội trên bãi biển cũng trở thành giá trị
hơn, duyên dáng hơn, hơn bất kì viên kim cương Kohinoor nào - bởi vì điều đó tất
cả đều phụ thuộc vào cách bạn thấy chúng. Nếu bạn có thể thấy hào quang của
chúng, ánh sáng của chúng, mầu sắc của chúng, cái đẹp của chúng, thế thì chúng
không còn chỉ là đá cuội nữa - chúng đã trở thành hoa.
Và khi bạn trở
thành ngày một nhạy cảm hơn bạn sẽ có hiểu biết của người mà bạn chưa từng có
trước đó. Chỉ nhìn khuôn mặt của một người, bạn sẽ thấy nhiều điều hơn bản thân
người đó biết về mình. Chỉ cầm tay của một người, bạn sẽ biết nhiều về năng lượng
của người đó hơn là người đó đã từng biết. Ở cùng ai đó, bạn sẽ thấy rằng năng
lượng của bạn đang bị hút ra và bạn cảm thấy mệt mỏi - chỉ ở cùng với người đó.
Và với ai đó khác bạn cảm thấy bạn được nuôi dưỡng, bạn cảm thấy mạnh khoẻ hơn,
bạn cảm thấy lành mạnh hơn.
Những người
khác nhau sẽ cho bạn kinh nghiệm khác nhau, và những người khác nhau sẽ trở nên
bị hấp dẫn tới bạn khi nhận biết của bạn tăng trưởng lên. Chỉ thế thì những người
với phẩm chất tốt hơn sẽ tới gần bạn hơn.
Đúng là một người
có thể được biết bởi bạn bè của người đó, bởi bằng hữu mà người đó giữ. Điều đó
là tuyệt đối đúng, bởi vì bạn không thể giữ bằng hữu mà không hài hoà với bản
thể bên trong của bạn.
Với việc chứng
kiến của bạn sẽ có vài khó khăn: những người bạn cũ của bạn có thể không còn là
là bạn của bạn nữa, không phải là bạn đã làm gì hại cho họ nhưng đơn giản bạn
đã thay đổi và bây giờ bạn không còn khớp với trạng thái của họ nữa, với tâm thức
của họ nữa. Cho nên đừng bị lo nghĩ về điều đó. Nếu bạn có gia đình và bạn thấy
rằng vợ bạn đang rời xa bạn thế thì tốt hơn cả là nói với cô ấy điều bạn đang
làm: rằng nếu cô ấy muốn cùng với bạn, nếu cô ấy yêu bạn theo cách bạn yêu cô ấy,
bạn cũng muốn cô ấy là đồng hành trên cùng con đường của thiền. Bằng không, chẳng
mấy chốc mà các bạn xa rời nhau đến mức mọi thứ sẽ bị hiểu lầm.
Con bạn sẽ thấy
rằng bạn là con người khác - bạn không còn là cùng người bố cũ nữa. Tốt hơn cả
là giúp cho con bạn học một chút ít về chứng kiến. Và đừng nghĩ rằng chúng
không thể học được; chúng có thể học tốt hơn người lớn bởi vì chúng còn tươi trẻ,
chúng không bị nặng tải với quá khứ nào. Bạn chỉ phải thân thiện hơn với chúng
hơn là kiểu làm bố. Và trước khi sự rạn nứt xảy ra, tốt hơn cả là làm điều đó
rõ ràng với chúng, "Đây không phải là lỗi của bố nếu gia đình tan vỡ. Bố
đã chọn một con đường mà sẽ cho bố cái gì đó và bố muốn được chia sẻ với tất cả
các con."
Tôi không muốn
bất kì gia đình nào bị quấy rối bởi bất kì ai nhân danh tâm linh, và nếu chúng
ta có thể đáng yêu và từ bi hơn một chút và làm cho họ hiểu - và họ sẽ có khả
năng thấy rằng bạn ít giận dữ hơn, bạn ít mệt mỏi hơn, bạn ít thất vọng hơn, bạn
đáng yêu hơn, từ bi hơn - thì họ chắc chắn sẽ tới với bạn.
Các tôn giáo cũ
đã thuyết giảng về 'từ bỏ gia đình'. Đây là một trong những lí do - bởi vì chẳng
chóng thì chầy sẽ có khó khăn - nhưng tôi không nghĩ rằng đáng đem điều đó ra
thử, việc bạn từ bỏ gia đình.
Tôi nói với bạn
nó là một trường huấn luyện tốt - gia đình - và nếu bạn không thể thay đổi được
con bạn và vợ bạn những người yêu bạn, bạn định thay đổi ai trong thế giới này?
Bạn sẽ thấy ngày càng nhiều người lạ ở mọi nơi.
Bắt đầu ở bất
kì chỗ nào bạn đang ở đi. Và nếu bạn thấy cái gì đó cực kì có giá trị, chia sẻ
cái đó với mọi người.
Không một
sannyasin nào của tôi đã từ bỏ gia đình cả. Và mọi sannyasin đều đã tìm thấy sự
hỗ trợ vô cùng từ gia đình. Họ đã trở nên gần gũi hơn, họ đã trở thành bạn bè,
họ đã trở thành bạn đồng hành thân thiết.
Xem tiếp – Quay về Mục lục